Tám mươi sáu năm tuổi đời, 69 tuổi Đảng và gần 70 năm hoạt động cách mạng sôi nổi, phong phú, từ khi còn lăn lộn với phong trào cách mạng ở quê hương Vĩnh Long, Tây Nam bộ, Sài Gòn - Gia Định rồi Thành phố Hồ Chí Minh cho đến khi giữ cương vị Lãnh đạo đất nước, cuộc đời của đồng chí Võ Văn Kiệt gắn liền với những chặng đường đấu tranh đầy hy sinh gian khổ nhưng cũng rất đỗi hào hùng, oanh liệt và vẻ vang của Đảng và Nhân dân ta.
Dù ở bất cứ giai đoạn nào, giữ bất cứ cương vị gì, đồng chí luôn nỗ lực hết mình, bộc lộ tài năng chói sáng và để lại dấu ấn đáng nhớ, khó phai mờ, đó là “dấu ấn Võ Văn Kiệt”. Đồng chí Phạm Văn Đồng đã từng đánh giá về đồng chí Võ Văn Kiệt: “Trong các đời Thủ tướng thì Võ Văn Kiệt - Sáu Dân là người làm được nhiều việc lớn nhất cho dân, cho nước”, đó là sự khâm phục và đánh giá chân thành của lớp người đi trước đối với lớp cán bộ lãnh đạo đi sau tiếp nối sự nghiệp chấn hưng đất nước.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhằm đưa vùng đất Đồng Tháp Mười phát triển, lãnh đạo Trung ương và địa phương đã quyết tâm trong việc tìm biện pháp chinh phục. Cuối những năm 1980, đồng chí Võ Văn Kiệt, lúc ấy là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã tổ chức cuộc họp với lãnh đạo ba tỉnh Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp để bàn về biện pháp khai thác có hiệu quả vùng đất này. Qua những lần bàn bạc nghiên cứu, năm 1983, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng có quyết định Điều tra cơ bản tổng hợp đồng bằng sông Cửu Long. Kể từ khi triển khai, đồng chí Võ Văn Kiệt đã thường xuyên về đây cùng các nhà khoa học khảo sát và có những chỉ đạo sát sao việc khai hoang Đồng Tháp Mười.
Năm 1984, kênh Trung ương được đào xong, dẫn nguồn nước ngọt phù sa từ sông Tiền xuyên qua Đồng Tháp Mười về tận sông Vàm Cỏ Tây để tăng tốc rửa phèn, cải tạo đất. Nước ngọt dẫn tới đâu, người dân tụ họp về hai bên bờ kênh cất nhà, khai hoang, lập nghiệp tới đó. Từ cánh đồng đầy cỏ dại, năn, lát, sình lầy, nhờ quá trình khai hóa và gieo trồng, Đồng Tháp Mười đã biến thành cánh đồng lúa chín vàng trĩu hạt. Với sự hiểu biết, nhìn xa trông rộng, Đảng, Nhà nước và nhất là Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc bấy giờ đã chỉ đạo và từng bước thực hiện công cuộc khai hóa này thành công như ngày hôm nay. Từ một vùng “đất chết”, ngập úng, bạt ngàn lau sậy năm nào, đến năm 1987, vùng Đồng Tháp Mười đã trồng được trên 300.000ha lúa. Năm 1996 vượt lên hơn gấp đôi. Hiện nay, chính nơi đây góp phần rất lớn vào việc cung cấp lương thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, phục vụ xuất khẩu.
Công trình đường dây tải điện 500 KV Bắc - Nam là một mốc lịch sử quan trọng của sự phát triển ngành Điện lực Việt Nam, nó biểu hiện tầm nhìn chiến lược, quyết định đúng đắn của Đảng và Nhà nước, trí sáng tạo, tinh thần quyết tâm lao động quên mình và trách nhiệm cao của đông đảo đội ngũ cán bộ phụ trách, kỹ sư và công nhân Việt Nam, trong đó phải nói đến vai trò đặc biệt quan trọng của người đứng đầu Chính phủ lúc bấy giờ là Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Dự án đường dây xuyên Việt 500 KV đã gây rất nhiều tranh luận từ các cấp lãnh đạo Nhà nước, các chuyên gia kỹ thuật trong và ngoài nước đến dư luận xã hội vì những đặc thù có một không hai của nó. Trước tiên về mặt kỹ thuật, đây là một công trình khó dưới góc độ truyền tải điện vì khoảng cách quá lớn, rất gần với chiều dài được các chuyên gia gọi là “một phần tư bước sóng” (1.500 km), một chiều dài về lý thuyết, có thể gây ra rất nhiều khó khăn kỹ thuật trong thiết kế và vận hành đường dây như giới hạn ổn định và kéo theo nó là khả năng truyền tải thấp, khó giữ điện áp trong giới hạn cho phép, xác suất mất điện khá lớn vì đường dây mạch đơn, đi suốt chiều dài đất nước, nhiều đoạn qua những địa hình cực kỳ hiểm trở, điều kiện thiên nhiên rất khắc nghiệt, mưa bão lũ lụt hằng năm.
Từ quyết định của Thủ tướng đến ngày đóng điện đầu tiên lên đường dây là hơn bảy trăm ngày lao động sáng tạo, khẩn trương đầy gian khổ với tinh thần trách nhiệm cao của hàng chục vạn con người. Bản thân Thủ tướng, mặc dù bề bộn công việc của Chính phủ, đã dành rất nhiều thời gian và sự quan tâm đặc biệt đến công trình. Ông tiếp xúc trực tiếp với các nhà khoa học, làm việc thường xuyên với Bộ Năng lượng và các ban, ngành liên quan yêu cầu giành sự ưu tiên cao nhất để giải quyết những vướng mắc về thủ tục, trực tiếp kiểm tra công việc tại những nơi khó khăn nhất. Chất lượng công trình và tiến độ là hai vấn đề được Thủ tướng đặc biệt quan tâm, luôn nhấn mạnh và nhắc nhở. Việc lựa chọn công nghệ và thiết bị ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và lần đầu tiên trên quy mô lớn, công nghiệp điện lực Việt Nam được tiếp xúc với những thành tựu mới nhất của công nghệ truyền tải điện siêu cao áp trên thế giới. Trục cáp quang xuyên Việt đã được xây dựng và sử dụng không những chỉ phục vụ cho nhu cầu của ngành điện mà còn cho quốc phòng và mạng bưu chính viễn thông của cả nước. Để đẩy nhanh tiến độ xây lắp, Thủ tướng đã chỉ đạo chia việc thi công đường dây thành nhiều đoạn làm việc song song. Đây là một giải pháp rất khoa học đảm bảo rút ngắn một cách cơ bản thời gian xây lắp đường dây, nhiệm vụ phức tạp và nặng nề nhất của dự án. Hệ thống tải điện 500 KV Bắc – Nam đã được đưa vào sử dụng đúng như dự kiến với mọi chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật đều đạt và vượt yêu cầu của luận chứng ban đầu. Sau hơn 08 năm hoạt động, công trình vẫn đứng vững trước những đợt thiên tai lớn chưa từng có ở những địa phương nơi đường dây đi qua, đã giải quyết cơ bản tình trạng thiếu điện trầm trọng và triền miên ở miền Trung và miền Nam trước đây.
Một trong những thành tựu đặc biệt của giáo dục Việt Nam là sự ra đời và hoạt động có hiệu quả của hai Đại học Quốc gia và đây cũng là một trong những “dấu ấn đậm chất Võ Văn Kiệt”. Việc giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các trường đại học có thể so sánh như một thứ “Khoán 10” trong giáo dục đại học. Đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển đại học trên thế giới, đặc biệt là trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển như vũ bão. Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng đại học quốc gia với những ý tưởng mới về một nền giáo dục đại học. Sự ra đời của hai Đại học Quốc gia là mốc đổi mới sâu sắc trong cơ cấu hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên xuất hiện loại trường đại học đa lĩnh vực có quyền tự chủ cao trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
Việc xây dựng Đại học Quốc gia nhằm mục tiêu để Việt Nam nhanh chóng có những trung tâm đại học mạnh, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các Đại học Quốc gia được xây dựng có tác dụng thúc đẩy đối với toàn bộ hệ thống đại học của nước ta”. Ngày 10/12/1993, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã ký Nghị định thành lập Đại học Quốc gia Hà Nội. Tiếp theo đó là thời gian hoàn thiện ý tưởng và mô hình Đại học Quốc gia, thể hiện trong bản Quy chế đầu tiên về Đại học Quốc gia Hà Nội được ban hành vào ngày 05/9/1994. Quy chế này đã phản ánh khá đầy đủ những ý tưởng chiến lược của Thủ tướng về giáo dục đại học.
Trên cương vị người đứng đầu Chính phủ, đồng chí đã có những quyết sách cực kỳ quyết liệt và táo bạo thực hiện bằng được những chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, thể hiện tầm nhìn chiến lược, tinh thần quyết đoán và ý thức trách nhiệm cao trước Đảng đó là xây dựng đường Bắc Thăng Long - Nội Bài, mở rộng cửa ngõ Thủ đô Hà Nội, đường Hồ Chí Minh, Nhà máy lọc dầu Dung Quất; phát triển ngành dầu khí, viễn thông, hàng không, các tổng công ty lớn của Nhà nước, … và còn nhiều công trình lớn khác.
Tất cả những hành động và quyết sách mang tầm vóc lịch sử đó đã nói lên tâm huyết và những nỗ lực phi thường của đồng chí trong tổ chức thực hiện các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Từ những công trình này đã góp phần thay đổi căn bản diện mạo các vùng đất này, mang lại nguồn sinh khí mới và cuộc sống sung túc hơn cho người dân, nhất là nông dân, nông thôn.
Khi thôi giữ trọng trách người đứng đầu Chính phủ, rồi được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Võ Văn Kiệt vẫn luôn đau đáu nỗi lo cho dân, cho nước, theo dõi sát tình hình, thường xuyên đóng góp ý kiến với các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về nhiều vấn đề hệ trọng của đất nước./.
Xuân Giang
Tài liệu tham khảo:
1. Võ Văn Kiệt – Một nhân cách lớn, Nhà lãnh đạo tài năng, Suốt đời vì nước vì dân. NXB Chính trị Quốc gia, năm 2012
2. Võ Văn Kiệt – Người thắp lửa. NXB trẻ năm
3. Võ Văn Kiệt - Tiểu sử”, Chương trình sưu tầm tài liệu, viết lịch sử các đồng chí lãnh đạo tiền bối của Đảng và cách mạng Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, năm 2015.
4. https://dienvadoisong.vn/