Ngày 21/5/2000, cầu Mỹ Thuận – một địa danh quan trọng trong khu vực và là niềm mơ ước của người dân – đã trở thành hiện thực. Đây là chiếc cầu dây văng đầu tiên ở Việt Nam và là công trình của sự kết hợp giữa nét kiến trúc và kỹ thuật tiên tiến nhất...
Trên gò đất cao nhất thành phố, tại giao lộ 19/8 và đường Hoàng Thái Hiếu có một cây da cao lớn, cành lá sum suê, rợp mát. Quả thực, trong khung cảnh ồn ào, náo nhiệt của trung tâm thành phố Vĩnh Long vốn thiếu cây cao bóng cả, dư thừa khói bụi, ...
Chùa Bồ Đề tọa lạc tại ấp Mỹ Hưng, xã Mỹ Hoà, huyện Bình Minh, cách thành phố Vĩnh Long chừng 30 km về phía Tây, cách thành phố Cần Thơ 2 km về phía Đông Nam.Theo các bậc kỳ lão, chùa Bồ Đề xây dựng từ giữa thế kỷ XIX...
Khởi nguyên, chùa Phước Hậu chỉ là một chiếc am tranh. Thỉnh thoảng, có một vài thiền sư vãng du đến rồi đi. Mãi đến năm 1894, ông Hương cả làng Đông Hậu là Lê Văn Gồng vốn lòng mộ đạo, vận động thiện nam tín nữ trong làng xây dựng một ngôi chùa sườn gỗ,...
Di chỉ khảo cổ học Thành Mới trải rộng trên địa bàn ấp Ruột Ngựa, ấp Bình Phụng - xã Trung Hiệp và ấp Bình Thành - xã Trung Hiếu – huyện Vũng Liêm. Di chỉ Thành Mới đã được các nhà khảo cổ học người Pháp phát hiện từ đầu thế kỉ XX....
Nhà cổ Cầu Kè hay nhà Huỳnh Kỳ tọa lạc ở trung tâm thị trấn Cầu Kè, huyện Cầu Kè (nay là xã Cầu Kè, tỉnh Vĩnh Long), cách thành phố Trà Vinh (nay là phường Trà Vinh) khoảng 30km. Ngôi nhà được xây dựng vào năm 1924 theo bản thiết kế của các kiến trúc sư người Pháp....
Chùa Hạnh Phúc Tăng – tiếng Khmer là Sanghamangala – tọa lạc tại ấp Trung Trạch, xã Trung Thành, huyện Vũng Liêm. Theo các nhà sư và một số tín đồ cao niên kể lại thì chùa này có niên đại cao nhất so với các chùa Khmer khác trên địa phận hai tỉnh Vĩnh Long - Trà Vinh....
Chùa toạ lạc tại ấp Sóc Rừng, xã Loan Mỹ, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long, cách thành phố Vĩnh Long 42 km về phía Đông Nam. Đây là di tích kiến trúc nghệ thuật đặc trưng của người Khmer Nam Bộ. Chùa được Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long công nhận là Di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh vào ngày 23-11-2007, theo Quyết định số 2427/QĐ-UBND....
Chùa Long Khánh tọa lạc tại số 28 – đường 8/3 – khu vực 4 – khóm B – Phường 5 – thành phố Vĩnh Long. Chùa Long Khánh cách trung tâm thành phố Vĩnh Long 1.800 mét về phía Đông Nam...
Theo Đại Nam nhất thống chí, chùa Tiên Châu do Hoà thượng Huỳnh Đức Hội “khai sơn”. Hòa thượng Đức Hội có pháp danh Tánh Minh, đời thứ 39 phái Lâm Tế, dòng Liễu Quán. Qua pháp danh, chúng ta biết Hoà thượng Đức Hội là đệ tử của Hòa thượng Đạo Thành, người đã khai sáng chùa Khánh Long (Biên Hòa) và chùa Hội Sơn (Thủ Đức)...
Chùa Toà Sen toạ lạc tại ấp Hoá Thành, xã Đông Thành, huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long. Tổng diện tích của chùa là 17.780 mét vuông. Chùa có khuôn viên rộng rãi, thoáng mát, có vườn cây cổ thụ và cây ăn trái. Các công trình kiến trúc được xây dựng bằng bê-tông cốt thép...
Khu tưởng niệm Cố Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng được khởi công xây dựng ngày 02 tháng 10 năm 2000 và khánh thành ngày 11 tháng 06 năm 2004 nhân dịp 92 nămngày sinh của ông. Khu tưởng niệm được xây dựng tại ấp Long Thuận A - xã Long Phước – Huyện Long Hồ...
KhuTrong hai thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Vĩnh Long trở thành chiến trường ác liệt vào bậc nhất ở ĐBSCL. Xuất phát từ vị trí xung yếu của Vĩnh Long, kẻ địch luôn dồn sức mạnh nhằm khống chế bằng được địa bàn này. Về phía ta, quân dân Vĩnh Long dưới sự lãnh đạo của Đảng kiên trì bám trụ, giành giật với địch từng tấc đất quê hương...
Đình Bình Phụng thuộc ấp Bình Phụng, xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm. Đình được tạo lập vào năm 1920, bằng tre lá đơn sơ, thờ thần Thành Hoàng bổn cảnh và những bậc tiền nhân có công với làng xã. Bên cạnh đó, dân làng còn thờ ông Tà theo tín ngưỡng dân gian Khmer...
Đình Bình Phước tọa lạc tại ấp Phước Trinh A, xã Bình Phước, huyện Mang Thít, cách trung tâm thành phố vĩnh Long 10 km về phía Đông Nam. Đường đi tới di tích thuận lợi cho du khách cả đường thủy lẫn đường bộ...
Đình Hậu Thạnh toạ lạc tại ấp Tân Thạnh, xã Lục Sĩ Thành, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Buổi đầu khai hoang mở đất, dân gian lưu truyền có bà Trần Thị Vạn, gốc Bình Định, là người đầu tiên đến đây lập nghiệp. Đến khi dân cư đông đúc, để cầu cho mưa thuận gió hòa, nhân dân làm ăn phát đạt và bình yên nên đình thần được xây dựng nhằm đáp ứng đời sống tâm linh của bà con trong vùng...
Di tích tọa lạc tại ngã ba Đình thuộc ấp Hòa Thuận, xã Hòa Ninh, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Đình thần Hòa Ninh xưa được xây dựng vào năm Kỷ Dậu 1849. Đình cất trên phần đất rộng 2.000 mét vuông của ông Huỳnh Văn Phuông. Sau đó, Hội Hương của đình Hòa Ninh mua thêm 10.000 mét vuông, mở rộng phạm vi của đình để thuận tiện cho việc thờ cúng chiêm bái của dân làng...
Đình Kỳ Hà toạ lạc tại ấp An Thạnh, xã Phú Đức, huyện Long Hồ, được xây dựng vào đầu thế kỷ XIX. Đến năm 1852, đình được vua Tự Đức sắc phong "Thành Hoàng bổn cảnh". Đình Kỳ Hà nằm giữa huyện lỵ Long Hồ và căn cứ Rừng Dơi. Trước 1927, nhiều nhân sĩ, trí thức về đây hoạt động. Đến khi chi bộ Ngã tư Long Hồ được thành lập, đình là địa điểm họp dân để cán bộ tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản...
Di tích tọa lạc tại Khóm 4 – Phường 4 – thành phố Vĩnh Long. Đình thần Long Hồ được xây dựng vào khoảng nửa đầu thế kỷ XIX. Lúc đầu, ngôi đình xây dựng đơn sơ cây lá. Nhân dân làng Long Hồ trùng tu ngôi đình nhiều lần. Năm 1852, đình Long Hồ được vua Tự Đức sắc phong “Bổn Cảnh thành hoàng”...
Khoảng năm 1754, sau khi năm họ Mai, Hồ, Mạc, Võ, Đoàn và nhiều lưu dân khác khai phá thành lập thôn Long Thanh thì ngôi đình làng này xây cất tại vàm Bùng Binh, ấp Hưng Long. Ngôi đình đầu tiên chỉ cất tạm bằng cây lá...
Đình Tân Hoa thuộc huyện Vĩnh Bình, Phủ Định Viễn, nay ở tại ấp Tân Hưng, xã Tân Hòa, thành phố Vĩnh Long. Đình Tân Hoa nằm bên bờ sông Tiền, ngó mặt ra vàm rạch Cái Đôi nên dân thường gọi là đình Cái Đôi. Ngày nay, ngôi đình này đối diện với cầu Mỹ Thuận, là một vị trí thích hợp cho khách du lịch nhìn ngắm danh lam thắng cảnh...
"Sắc Bổn cảnh Thành hoàng chi thần… Tuân Nghĩa huyện, Thiện Mỹ thôn… Tự Đức ngũ niên, thập nhất nguyệt, nhị thập cửu nhật (1852)". Theo lời truyền tụng, đình làng Thiện Mỹ được lập trước đó một thời gian. Nghĩa là khi cư dân ở đây tương đối đông đúc, sống quây quần bên nhau thành làng, xóm… đủ điều kiện để triều đình đặt bộ máy quản lý cấp thấp nhất lúc bấy giờ...
Hàng năm, vào ngày mồng ba và mồng bốn tháng Giêng, bà con các nơi về Trà Ôn vui Tết và tham dự lễ giỗ quan Tiền quân Thống chế điều bát Nguyễn Văn Tồn (1763 - 1820)...
Nhiều sách báo trước đây đã nói đến miếu Công thần Vĩnh Long, nhưng tất cả đều bị bao phủ bởi các huyền thoại. Có người nói, ngôi miếu này xây dựng vào thời Gia Long, thờ 85 vị Trung Hưng Công thần. Rồi có tác giả chọn 85 vị Công thần triều Gia Long thờ ở miếu Hiển Trung (Gia Định) gán ghép vào...
Di tích tọa lạc tại ấp Mỹ Phú I, xã Mỹ Thạnh Trung, huyện Tam Bình. Từ UBND xã Mỹ Thạnh Trung, theo tỉnh lộ 33 đi về cua Ông Đốc 900 mét, rẽ trái 300 mét, gặp di tích Miếu quan tiền hiền nằm cạnh bờ sông Mỹ Thạnh...
Lịch sử ghi lại sự kiện năm Kỷ Mùi (1679), một đoàn người gồm khoảng 3.000 dân – binh Trung Hoa đi trên 80 chiến thuyền, vượt biển đến Đà Nẵng đệ đơn xin chúa Nguyễn cho phép tỵ nạn chính trị. Chúa Nguyễn chấp nhận thỉnh cầu và cử người hộ tống đoàn trực chỉ về phương Nam...
Nhà thơ Nhiêu Tâm tên thật là Đỗ Như Tâm, hiệu Như Tâm, Minh Tâm, biệt hiệu là Minh Giám. Vì ông có chân trong "Nhiêu học" (người được hưởng học bổng trong nhà nước phong kiến) nên người ta thường gọi ông là Nhiêu Tâm. Ông sinh năm 1840, sống ở làng Sơn Đông (nay thuộc xã Thanh Đức, huyện Long Hồ) và mất năm 1911...
Nghĩa Trủng miếu còn gọi là miếu Âm Nhơn, tọa lạc tại tổ 9, ấp Phước Hanh B, xã Phước Hậu, huyện Long Hồ. Di tích gồm có 02 phần : ngôi miếu và nghĩa trang là nơi thờ tự và yên nghỉ của nghĩa sĩ vì nước quên thân...
Đầu năm 1928, ông Trương Như Thị cùng các chức sắc đạo Cao Đài tạo lập nhà tịnh Kim Linh. Nhà tịnh Kim Linh được lập tại nhà ông Trương Như Thị, thuộc xã Tân Long Hội, huyện Cái Nhum (nay thuộc huyện Mang Thít). Họ đạo ở đây theo hệ phái Tiên Thiên. Năm 1936, ông Trương Hoàng Ngự – một chúc sắc Cao Đài – hiến 7 công đất để xây dựng thánh tịnh mới – thánh tịnh Ngọc Sơn Quang...
Thất Phủ miếu là bảy phủ: Ninh Ba, Phước Châu, Chương Châu, Truyền Châu, Quảng Châu, Triều Châu và Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) của các tỉnh Trực Lệ, Phước Kiến và Quảng Đông. Vào đời Thanh, có rất nhiều người Hoa ở các các địa phương vừa kể sang nước ta lập nghiệp nên nhà Nguyễn cho phép họ lập Hội Thất Phủ, tượng tự như Hội Hoa kiều ngày nay...
Văn Thánh Miếu Vĩnh Long thờ đức Khổng Tử tại làng Long Hồ, nay thuộc phường 4, TP Vĩnh Long.Đó là một trong ba Văn Thánh Miếu được xây dựng đầu tiên ở Nam bộ: Văn Thánh Miếu ở Biên Hòa, Gia Định và Vĩnh Long. Văn Thánh Miếu Vĩnh Long xây dựng vào năm 1862...
Khu tưởng niệm nữ Anh hùng Nguyễn Thị Út (Út Tịch) tọa lạc tại ấp Ngọc Hồ, xã Tam Ngãi, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh (nay là xã Tam Ngãi, tỉnh Vĩnh Long). Khu tưởng niệm có khuôn viên rộng 1,4 ha, nằm trên con giồng đất cát cao ráo, với các hạng mục công trình chính là Cổng tam quan, nhà dừng chân, khu tưởng niệm, khu trưng bày - truyền thống,...
Vào cuối tháng 4-1930, chi bộ ĐCSĐD đầu tiên của tỉnh Bến Tre được thành lập tại nhà ông Nguyễn Văn Cung. Chi bộ gồm 10 đảng viên, nguyên là hội viên của chi bộ VNTNCMĐCH trước đó, do đồng chí Nguyễn Văn Ân thay mặt liên tỉnh ủy lâm thời Mỹ Tho - Bến Tre đứng ra thành lập. Đồng chí Nguyễn Văn Trí thay mặt Liên tỉnh ủy lâm thời Mỹ Tho - Bến Tre công nhận chi bộ do đồng chí Nguyễn Văn An làm Bí thư...
Trương Vĩnh Ký, biệt hiệu Sĩ Tải, tên thánh là Jean - Baptiste Pétrus (nên thường gọi l Ptrus Ký). Ông sinh ngày 6 tháng 12 năm 1837 tại làng Vĩnh Thành (còn gọi là Cái Mơn), tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, phủ Hoằng An, tỉnh Vĩnh Long (nay là xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre)...
Ngày 13 tháng 9 năm 2012, UBND tỉnh Bến Tre ban hành Quyết định số 1763/QĐ-UBND về việc công nhận Chùa An Linh (xã An Nhơn, huyện Thạnh Phú) là di tích cấp tỉnh về lịch sử cách mạng và tín ngưỡng tôn giáo...
Di tích Đền thờ Ân sư tiền vãng (Miếu Tiên sư) tọa lạc tại phường An Hội, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. Về thời gian xây dựng Đền thờ Ân sư tiền vãng cho đến nay vẫn chưa xác định được chính xác. Cho dù bên ngoài hai bên cổng đền thờ có khắc năm 1969 (năm Kỷ Dậu) nên nhiều người cho rằng đền thờ được xây dựng năm 1969...
Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát (Sáu Phát, Tám Chí ), sinh ngày 15 tháng 02 năm 1913 tại xã Tân Hưng (nay là xã Châu Hưng), huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Khi đến tuổi học trung học, ông lên Sài Gòn học trường Pétrus Ký. Sau đó ông thi vào trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (Hà Nội) và đậu thủ khoa kiến trúc trường này...
Lịch sử hai cuộc KCCP và KCCM đã ghi lại hai lần vượt biển từ xã Thạnh Phong huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre ra thủ đô Hà Nội để gặp Trung ương báo cáo tình hình và xin chi viện cho chiến trường Nam Bộ...
Nhà cổ Huỳnh phủ (Hương Liêm) là một công trình kiến trúc điêu khắc gỗ rất độc đáo, hiện nội thất còn bảo tồn gần như nguyên vẹn. Ngôi nhà tọa lạc tại xã Đại Điền, huyện Thạnh Phú được xây dựng cách nay hơn 100 năm do ông Huỳnh Ngọc Khiêm (1843 - 1927) làm nên...
Khu căn cứ này còn có mật danh là T4, Y4. Từ thành phố Bến Tre theo quốc lộ 60, qua phà Hàm Luông đi đến ngã ba chợ Xép rẽ phải đi tiếp 5 km nữa là đến xã Tân Phú Tây và xã Thành An thuộc huyện Mỏ Cày...
Chùa Tuyên Linh được xây dựng từ năm Tân Dậu (1861), dưới triều Tự Đức năm thứ 14, nằm sát bên rạch Tân Hương, trên đường từ cái Bần đi Phú Khánh, thuộc xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày. So với Hội Tông cổ tự ở xã Quới Sơn, huyện Châu Thành, thì chùa Tuyên Linh không cổ bằng, nhưng nơi đây đã từng diễn ra nhiều sự kiện lịch sử đáng chú ý...
Nguyễn Ngọc Thăng quê làng Mỹ Thạnh, huyện Tân An, nay là xã Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm, năm 1848 giữ chức Lãnh binh trong quân đội dưới triều Thiệu Trị. Năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, ông đem binh ứng cứu, nhưng chưa kịp đến nơi thì thành bị hạ. Ông được lệnh đóng giữ phòng tuyến Kỳ Hòa, ở đồn Cây Mai...
Nguyễn Đình Chiểu, sau khi bị mù hai mắt, mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh ở Bình Vi, Gia Định. Khi quân Pháp chiếm thành Gia Định, ông chạy về quê vợ ở làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc. Khi 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ rơi vào tay giặc, Nguyễn Đình Chiểu rời Cần Giuộc về Ba Tri (1862)...
Võ Trường Toản người huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, là người học rộng tài cao, thông đạt kim cổ. Thời chiến tranh Tây Sơn - Nguyễn Ánh, ông ở ẩn nơi quê nhà, mở trường dạy học, không tham gia vào chính trị, từ chối mọi điều ban phát...
Đình nằm trên khu đất giồng ở ấp Bình Minh, làng Bình Hoà, nay thuộc thị trấn Giồng Trôm, nằm cạnh đường 885, cách thành phố Bến Tre 16km, có thể đến bằng đường bộ hoặc đường thủy...
Căn cứ vào bia còn lưu lại tại đình cho biết niên đại xây đình vào năm Minh Mạng thứ 7(1826) trên cơ sở ngôi đình bằng gỗ lá, được sắc phong vào năm Tự Đức thứ 5(1851). Thềm và móng được cấu trúc bằng đá xanh, bên trên xây gạch...
Từ thành phố Bến Tre, theo đường Nguyễn Đình Chiểu đến ngã ba Phú Hưng (khoảng 2,5km), tiếp tục đi thẳng đến ngã ba vào ấp Phú Hào (khoảng 200m) rẽ trái vào khoảng 600m là đến di tích. Di tích nằm bên trái...
Đình Tân Hưng hiện tọa lạc tại xã Châu Hưng, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Từ thành phố Bến Tre, theo Quốc lộ 60 đến ngã tư huyện Châu Thành (8km), theo đường tỉnh 883, qua cầu An Hóa, đến ngã ba xã Châu Hưng (khoảng 14km),...
Ngày 1-1-1960, đồng chí Nguyễn Thị Định, Phó bí thư Tỉnh ủy Bến Tre đi dự hội nghị của Khu ủy khu 8 để tiếp thu Nghị quyết 15 của Trung ương về đến Mỏ Cày. - Đêm 2-1, hội nghị cán bộ lãnh đạo tỉnh được triệu tập tại một địa điểm ở Mỏ Cày,...
Ngôi nhà ông Nguyễn Văn Trác (thường gọi là Mười Trác) ở xã Hưng Lễ, huyện Giồng Trôm, là nơi Bí thư Xứ ủy Nam Bộ Lê Duẩn đã ở và làm việc từ tháng 11-1955 đến tháng 3-1956, để chỉ đạo phong trào cách mạng miền Nam và tổng hợp tình hình và dự thảo Đề cương cách mạng miền Nam...
Với không gian sông nước yên bình, khuôn viên rộng rãi, thoáng mát kết hợp những hoạt động trải nghiệm thú vị tại vùng quê ven biển. Đất Cù Lao là điểm đến thích hợp cho những buổi thư giãn cuối tuần cùng gia đình, bạn bè, hay du khách có dịp ghé thăm Trà Vinh...
Cồn Ông là mô hình du lịch nông nghiệp của xã Dân Thành, thị xã Duyên Hải (nay là Phường Duyên Hải, tỉnh Vĩnh Long). Mô hình hiện có 9 hộ dân tham gia với các sản phẩm bánh dân gian và các loại nông sản...
Cồn Chim có diện tích tự nhiên 60 ha, nằm giữa sông Cổ Chiên, trong đó diện tích đất nông nghiệp là 34 ha và có 220 người dân sinh sống. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh Trà Vinh (nay là tỉnh Vĩnh Long)...
Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, người dân địa phương vẫn quen gọi là Đền thờ Bác Hồ, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng khái quát thành biểu tượng “Công trình của Trái tim” bởi ý nghĩa thiêng liêng của việc hình thành,...
Biển Ba Động là danh thắng và là khu du lịch nổi tiếng thuộc xã Trường Long Hòa, thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh (nay là phường Trường Long Hòa, tỉnh Vĩnh Long). Khu du lịch này có vị trí nằm giữa hai cửa biển Cung Hầu (sông Tiền), Định An (sông Hậu), nhìn chính diện ra biển Đông...
Hiện ở Việt Nam chỉ có hai bảo tàng văn hóa dân tộc Khmer, một ở Sóc Trăng (nay là thành phố Cần Thơ) và một ở Trà Vinh (nay là tỉnh Vĩnh Long). Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh được khánh thành vào năm 1995, lưu giữ rất nhiều hiện vật phong phú về đời sống văn hóa tinh thần, văn hóa vật chất của đồng bào Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long...
Di tích Ao Bà Om thuộc khóm 4, phường 8, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh (nay là phường Nguyệt Hóa, tỉnh Vĩnh Long). Di tích danh thắng Ao Bà Om còn gọi là Ao Vuông vì ao có hình gần vuông...
Bảo tàng Dừa sáp Trà Vinh không chỉ là nơi lưu giữ giá trị văn hóa đặc sắc mà còn là điểm đến du lịch độc đáo dành cho du khách muốn khám phá câu chuyện đặc biệt về cây dừa sáp – một loại cây chỉ phát triển tốt trên vùng đất Trà Vinh...
Phước Minh cung còn có các tên gọi khác là Chùa Quan Thánh đế hay Chùa Ông là cơ sở tín ngưỡng tiêu biểu của cộng đồng người Hoa trên địa bàn tỉnh Trà Vinh (nay là tỉnh Vĩnh Long)...
Khu di tích Bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu thuộc ấp Cồn Trứng, xã Trường Long Hòa, huyện Duyên Hải (nay là Phường Trường Long Hòa, tỉnh Vĩnh Long). Đây không chỉ là địa chỉ giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ mà còn là điểm tham quan du lịch tiềm năng,...
Trong những thập niên gần đây, Chùa Cò là một trong những địa chỉ du lịch nổi tiếng của tỉnh Trà Vinh (nay là tỉnh Vĩnh Long), có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với du khách gần xa. Ngôi chùa này tọa lạc tại ấp Cây Da, xã Đại An, huyện Trà Cú (nay thuộc xã Đại An, tỉnh Vĩnh Long)...
Chùa Hang, tiếng Khmer gọi là Wat Kompong Ch’rây, là ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer nổi tiếng, tọa lạc tại khóm 3, thị trấn Châu Thành (nay là xã Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long)...
Chùa Ông Mẹt là tên gọi thông dụng của ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer tọa lạc tại Phường 1, thành phố Trà Vinh (nay là Phường Trà Vinh, tỉnh Vĩnh Long). Tên gọi theo Phạn ngữ của ngôi chùa này là Bodhisàlaraja, người Khmer vẫn quen gọi là Wat Kompong, dịch nghĩa là Chùa Bến...
Chùa Âng, gọi theo ngôn ngữ Paly là Wat Angkor Raig Borei, tọa lạc tại Phường 8, thành phố Trà Vinh (nay là Phường Nguyệt Hóa, tỉnh Vĩnh Long), liên hoàn với danh thắng Ao Bà Om và Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh...
Bởi Nguyễn Nguyên | Tổng hợp tứ các nguồn
Ngày 21/5/2000, cầu Mỹ Thuận – một địa danh quan trọng trong khu vực và là niềm mơ ước của người dân – đã trở thành hiện thực. Đây là chiếc cầu dây văng đầu tiên ở Việt Nam và là công trình của sự kết hợp giữa nét kiến trúc và kỹ thuật tiên tiến nhất. Quan trọng hơn, cầu Mỹ Thuận là một sản phẩm của tình hữu nghị hợp tác giữa nhân dân và Chính phủ hai nước Việt Nam – Australia. Việc xây dựng thành công cầu Mỹ Thuận là một biểu tượng đầy ý nghĩa, là một bằng chứng của tình hữu nghị bền vững trong sự phát triển của đất nước trong thế kỷ XXI.
Ngắm cầu Mỹ Thuận vào ban đêm
Cầu Mỹ Thuận là một cây cầu bắc qua Tiền Giang ở đồng bằng sông Cửu Long, được chính thức khởi công ngày 6 tháng 7 năm 1997. Mỹ Thuận là tên của một ngôi làng nhỏ nằm bên tả ngạn sông Tiền, nhánh phía bắc của sông Cửu Long, thuộc tỉnh Tiền Giang (cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 200 km về hướng tây nam. Quốc lộ 1 vượt qua sông Tiền ở Mỹ Thuận vì nơi đây sông chỉ rộng có 800 m, hẹp nhất trong suốt chiều dài của nó trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Bắt đầu từ năm 1936, xe cộ và khách bộ hành phải dùng phà để qua hữu ngạn, thuộc tỉnh Vĩnh Long; và bến phà được gọi với cái tên quen thuộc là bắc Mỹ Thuận.
Cầu Mỹ Thuận chính thức khởi công ngày 6 tháng 7 năm 1997 ở một địa điểm cách bến bắc Mỹ Thuận khoảng 1 km về phía hạ lưu. Cầu thuộc loại cáp kéo có chiều dài khoảng 1.535 m và một tầm gió 37.5 m (khoảng cách từ mặt nước cao nhất đến sàn cầu). Vày chính của cầu sẽ dài 350 m, được neo vào hai trụ tháp bê tông cao khoảng 121 m bởi 128 dây cáp (Sàn cầu rộng khoảng 23 m, đủ cho 4 lằn xe (2 lằn xe cho mỗi chiều lưu thông) và 2 lề đường ở hai bên cho người đi bộ.
Cầu Mỹ Thuận
Cầu dẫn có chiều dài 442,6 mét, gồm 11 nhịp, mỗi nhịp dài 40 mét. Nhịp sát trụ neo dài 43,8 mét và nhịp sát mố cầu dài 38,8 mét.
Nền đường đắp có chiều cao tối đa là 6 mét, được xử lý đặc biệt bằng công nghệ chống thấm do nền đường yếu.
Bởi Nguyễn Nguyên | Sách Di tích lịch sử – văn hóa tỉnh Vĩnh Long
Trên gò đất cao nhất thành phố, tại giao lộ 19/8 và đường Hoàng Thái Hiếu có một cây da cao lớn, cành lá sum suê, rợp mát. Quả thực, trong khung cảnh ồn ào, náo nhiệt của trung tâm thành phố Vĩnh Long vốn thiếu cây cao bóng cả, dư thừa khói bụi, tiếng ồn thì sự hiện diện của cây da kia đã là điều thú vị. Đặc biệt hơn, người Vĩnh Long lâu nay luôn giữ gìn cây da bằng tình cảm trân trọng, thiêng liêng, vì đây chính là dấu vết duy nhất còn sót lại của thành Vĩnh Long xưa : cây da cửa Hữu.
Theo Đại Nam nhất thống chí và Gia Định thành thông chí, vào tháng hai năm Quý Dậu, đời Gia Long thứ 12 (1813), triều đình Huế lệnh cho quan Khâm mạng trấn thủ Lưu Phước Tường của Vĩnh Thanh trấn xây dựng thành. Thành xưa tọa lạc tại Phường 1, thành phố Vĩnh Long ngày nay. Thành đắp bằng đất, cửa chính hướng Đông Nam, lưng quay hướng Tây Bắc. Chu vi thành rộng 750 trượng (một trượng bằng 3 thước), cao một trượng, dày 2,5 trượng. Quanh thành có hào rộng, sông sâu. Phía tả là sông Long Hồ, phía hữu là rạch Ngư Câu (rạch Cái Cá), mặt sau có sông Cổ Chiên (một nhánh lớn của Sông Tiền), mặt trước có đường Cừ Sâu (nay là rạch Cầu Lầu). Thành có 5 cửa quay về 5 hướng Đông - Tây – Bắc – Đông Nam và Tây Nam. Cửa Tiền của thành ở hướng Đông, cửa Hậu hướng Tây, cửa Tả hướng Bắc, cửa Hữu hướng Tây Nam. Bên ngoài mỗi cửa thành đều có một đoạn thành cong, bao vòng cửa. Bốn góc thành tạo thành hình hoa mai. Trong thành có hai con đường dọc, 3 đường ngang, 3 công thự, kho lương, nhà thừa ty, trại lính và hành cung. Phía Đông thành có quan lộ chạy dọc sông Long Hồ, phía Tả là nhà Sứ quán, phía Hữu là chợ Vĩnh Thanh. Riêng góc Nam của thành, chỗ tiếp giáp đường cừ và sông Long Hồ, có xưởng Thủy sư (xưởng đóng tàu chiến). Thành tuy không rộng nhưng được xây dựng kiên cố, bố phòng chặt chẽ, thuận tiện đường tiến thủ. Nói về tầm quan yếu của thành, sách Gia Định thành thông chí nhận định : “ …Thật là yếu địa hình thắng vậy”.
Đời Minh Mạng thứ 13 (1832), sau đúng 100 năm thành lập Long Hồ dinh (1732), Vĩnh Thanh trấn đổi tên thành Vĩnh Long trấn (sau đổi tiếp thành Vĩnh Long tỉnh – một trong Nam Kỳ lục tỉnh). Do nhiều biến chuyển của lịch sử, địa phận Vĩnh Long về sau thu hẹp nhiều so với khi còn là thủ phủ miền Tây thời Ling Hồ dinh. Nhưng thành Vĩnh Long trong suốt quá trình tồn tại luôn là thành trì vững chắc, chi phối về quân sự – kinh tế – văn hóa cả khu vực miền Tây Nam Bộ rộng lớn của Tổ quốc.
Năm 1867, đánh chiếm Vĩnh Long xong, thực dân Pháp đập phá tất cả các công trình văn hóa, đồn lũy của nhà Nguyễn và san bằng thành Vĩnh Long.
Qua cơn tàn phá, rất may, trước cửa Hữu thành Vĩnh Long còn cây da sống sót. Nhân dân giữ gìn, bảo vệ cây da, gọi tên cây da cửa Hữu để lưu dấu và hoài niệm về thành Vĩnh Long xưa.
Vào thập niên 50, cây da mẹ – dấu vết duy nhất của thành Vĩnh Long xưa – bị lụi tàn. Từ thân cây mẹ mọc lên cây đa con vươn mình phát triển tươi tốt, tồn tại đến ngày nay.
Ngày 1/12/2000, UBND tỉnh ra quyết định công nhận Cây da cửa Hữu là di tích lịch sử – văn hóa cấp tỉnh.
Chùa Bồ Đề tọa lạc tại ấp Mỹ Hưng, xã Mỹ Hoà, huyện Bình Minh, cách thành phố Vĩnh Long chừng 30 km về phía Tây, cách thành phố Cần Thơ 2 km về phía Đông Nam.
Theo các bậc kỳ lão, chùa Bồ Đề xây dựng từ giữa thế kỷ XIX. Nơi đây là điểm tu hành của nhiều tín đồ sùng đạo, nhiều vị cao tăng đạo cao, đức trọng. Với thời gian tồn tại lâu dài cùng sự tàn phá của hai cuộc chiến tranh vừa qua, chùa Bồ Đề không còn nguyên vẹn với những đường nét cổ kính xưa kia, nhưng trong ký ức của bao người, nơi đây vẫn là điểm son tươi thắm của tình yêu quê hương đất nước, sự hài hợp tuyệt vời giữa đạo pháp và dân tộc, thể hiện xuyên suốt hai cuộc chiến tranh vệ quốc.
Ngay từ đầu thập niên 30, trong ấp Mỹ Hưng xuất hiện một người đàn ông lạ mặt phong cách lịch duyệt, nói năng mực thước, thường mặc áo dài xuyến, đầu đội khăn đóng. Ông lưu lại trong chùa Bồ Đề, hốt thuốc nam trị bệnh cứu dân lành. Người thầy thuốc nhanh chóng nổi tiếng với tài trị bệnh rất giỏi, lại thông thiên văn, địa lý. Mọi người bị lôi cuốn bởi tài hùng biện, kiến thức uyên bác của ông thầy thuốc. Thanh niên trai tráng thường xuyên tập hợp tại chùa để được nghe thầy Ba - bà con thân mật gọi ông thầy thuốc nam – nói chuyện. Những chuyện từ làm ăn, sinh sống, vui chơi giải trí hàng ngày đến những chuyện xa, chuyện gần đông - tây - kim cổ. Dần dần, nhiều thanh niên vốn mù chữ, thiếu thông tin đã hiểu biết ít nhiều về thế sự. Họ hiểu vì sao có kẻ giàu, người nghèo, có bất công xã hội… Tâm hồn thanh niên được người thầy khơi gợi tình yêu quê hương đất nước, gieo mầm tư tưởng tiến bộ.
Người thầy thuốc ở chùa Bồ Đề một năm. Ông ra đi một thời gian ngắn. Sau khi trở lại chùa, ông xuống tóc quy y và mang pháp danh Nhựt Quang.
Thầy Nhựt Quang giỏi giáo lý nhà Phật, thông thiên bác cổ nên bà con tín đồ xa gần hết sức trọng vọng. Nhiều người tự nguyện tìm đến xin học tập, kết thân với thầy. Trong số này có ông Bùi Văn Hoành, bà Bùi Thị Trường, bà Chiêm Thị Ngó (tức bà Phan Thị Đạm). Thầy say sưa nói về vai trò, vị trí của phụ nữ trong xã hội, phong trào đấu tranh của phụ nữ Việt Nam và phụ nữ thế giới, quyền sống của phụ nữ, sự bất bình đẳng xã hội mà phụ nữ đang gánh chịu nặng nề… Luồng tư tưởng mới truyền sang những thanh niên đang khao khát, hoài vọng về tiền đồ quốc gia, dân tộc. Thầy Nhựt Quang phổ biến cho thanh niên các loại sách báo tiến bộ đương thời như Phụ nữ Tân Văn, Một chữ trinh, Trai Nam Việt - gái Lạc Hồng… có tác dụng lớn trong việc trang bị kiến thức cho thanh niên.
Sự thật, thầy Nhựt Quang là nhà cách mạng Nguyễn Văn Nhẫn đang bí mật hoạt động, gầy dựng phong trào. Ông tìm về chùa Bồ Đề để tạo dựng cơ sở cách mạng, xây dựng tổ chức Đảng. Năm 1934, thầy Nhựt Quang vận động quần chúng xã Mỹ Hoà thành lập các hội Ái hữu, phổ biến các tài liệu cách mạng cho thanh niên tiến bộ. Năm 1936, Chi bộ đầu tiên của xã Mỹ Hoà được thành lập tại chùa Bồ Đề. Đây là kết quả qua dày công vận động, rèn luyện thử thách của nhà cách mạng tiền bối Nguyễn Văn Nhẫn.
Sau khi chính thức thành lập, Chi bộ Mỹ Hoà hoạt động tại xã nhà, đồng thời một bộ phận bí mật hoạt động ở thành phố Cần Thơ. Hai bộ phận thường xuyên hỗ trợ lẫn nhau. Chi bộ Đảng vận động nhân dân tham gia các đoàn thể, hội nhóm; phát động nhân dân yêu cầu nhà cầm quyền giảm sưu, giảm thuế. Năm 1936, đồng chí Đặng Công Lý tổ chức đưa đồng chí Bảy Cùi (tức Phan Văn Bảy (1910 - 1942) - nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Cần Thơ) sang Mỹ Hòa tổ chức nhiều đợt tuyên truyền cách mạng có đông đảo nhân dân tham dự. Chi bộ Đảng Mỹ Hòa thường tổ chức họp tại chùa Bồ Đề. Để che mắt địch, khi họp đều có bộ bài cào để giữa bàn, mỗi đảng viên bày trước mặt một ít tiền lẻ.
Năm 1939 - 1940, nhiều đảng viên chi bộ Mỹ Hòa bị lộ, bọn mật thám Pháp, tề ngụy theo dõi, bắt bớ. Các đồng chí Huỳnh Văn Chiêm, Lê Văn Vị, Từ Hiền Đại bị đày ra Côn Đảo; các đồng chí Nguyễn Văn Dân, Nguyễn Văn An, Nguyễn Văn Đông, Bùi Văn Bảy, Chiêm Thị Ngó bị giam ở Chí Hòa, Bà Rá. Sau đó, đồng chí Đông hy sinh ở Côn Đảo, đồng chí Lưu Nhân Sâm bị xử bắn ở Hóc Môn.
Cách mạng tháng Tám thành công, các đồng chí bị lưu đày trở về quê nhà hoạt động, tiếp tục lui tới chùa Bồ Đề hội họp. Khi Pháp quay lại Việt Nam, ủng hộ tuần lễ đồng - vàng của Chính phủ chùa Bồ Đề hiến đại hồng chung làm vũ khí đánh giặc.
Năm 1955 - 1956, Ngô Đình Diệm lập tỉnh Tam Cần, lấy thị trấn Trà Ôn làm tỉnh lỵ, lập ra huyện Bình Minh. Lúc ấy, tỉnh ủy Tam Cần chọn Mỹ Hòa, Đông Thành (Bình Minh), Ngãi Tứ, Song Phú (Tam Bình) làm khu căn cứ. Tỉnh ủy Tam Cần thường chọn chùa Bồ Đề làm điểm hội họp. Các đồng chí Nguyễn Thành Khẩn (Mười Thơ), Lê Thới Tợi, Chín Hà nhiều lần về chùa Bồ Đề nghỉ ngơi, hoạt động. Cơ sở cách mạng nhiệt thành. Đặc biệt, các ni sư giúp đỡ cách mạng tận tâm, tận lực.
Trong các năm 1957 - 1959, Liên Tỉnh ủy miền Tây từ căn cứ U Minh chuyển về đóng ven hai bờ sông Hậu, xã Mỹ Hòa trở thành xã căn cứ của Liên Tỉnh uỷ. Mỹ Hòa nhiều lần đón tiếp các đồng chí Phạm Thái Bường, Sáu Dân, Sáu Đàng, Mười Thơ về hội họp, chỉ đạo phong trào. Đồng chí Nguyễn Văn Hạnh (tức Tám Lương) – Trưởng Ban cơ yếu Khu Tây Nam Bộ kiêm nhiệm trạm đầu mối liên lạc của Văn phòng Liên Tỉnh ủy miền Tây – hoạt động ở Mỹ Hòa trong thời gian khá dài. Trong quá trình hoạt động, đồng chí liên hệ với ni cô Trần Thị Tám là trụ trì của chùa Bồ Đề. Ni cô Trần Thị Tám canh gác, bảo vệ các cuộc họp chu đáo, an toàn. Cho đến khi Tỉnh ủy Tam Cần giải tán, nơi đây không xảy ra sự việc đáng tiếc.
Sau Mậu Thân 1968, ông Võ Thành Bảy ở Cần Thơ về chùa Bồ Đề bàn bạc với các sư sãi, tín đồ đưa ông Chín Tòng, pháp danh Thích Trí Quảng về làm trụ trì chùa. Các ông bà như bác sĩ Thuấn, Võ Văn Bảy, Hai Trăm tổ chức rước ông Nguyễn Văn Tòng từ chùa Long Thới, Kế Sách, Cần Thơ về chùa Bồ Đề. Nhằm che mắt địch, Tôn giáo vận Cần Thơ tổ chức lễ rước tượng Phật long trọng. Từ thời điểm ấy, chùa Bồ Đề trở thành cơ quan của Tôn giáo vận thành phố Cần Thơ. Thầy Thích Trí Quảng xây bệ tượng bằng xi-măng, bên trong để bọng, làm hầm bí mật, phòng khi cấp thiết (hầm bí mật nay vẫn còn). Thầy Thích Trí Quảng hoạt động liên tục tại chùa, đến năm 1975 mới về lại thành phố Cần Thơ.
Chùa Bồ Đề được UBND tỉnh ra quyết định số 970/QĐ-UBT ngày 17/4/2003 công nhận là Di tích cấp tỉnh.
Khởi nguyên, chùa Phước Hậu chỉ là một chiếc am tranh. Thỉnh thoảng, có một vài thiền sư vãng du đến rồi đi. Mãi đến năm 1894, ông Hương cả làng Đông Hậu là Lê Văn Gồng vốn lòng mộ đạo, vận động thiện nam tín nữ trong làng xây dựng một ngôi chùa sườn gỗ, mái ngói âm dương, vách ván, nền gạch. Ngôi chùa này là một dạng chùa làng, nên được đặt tên là chùa Đông Hậu. Đến năm 1910, ông Hương cả Lê Văn Gồng mất, con gái ông là bà Lê Thị Huỳnh và Phật tử địa phương đã thỉnh Hoà thượng Hoằng Chỉnh ở chùa Thiên Ấn (Quảng Ngãi) vào trụ trì. Hoà thượng Hoằng Chỉnh đã đổi hiệu chùa Đông Hậu thành Phước Hậu cho thích hợp hơn. Hòa thượng Hoằng Chỉnh là một cao tăng nên hoằng dương một thời gian thì thiền môn vào quy củ, tăng ni tín đồ đến quy y thọ giới mỗi ngày một đông.
Năm 1939, Hoà thượng Hoằng Chỉnh viên tịch nên đến năm 1942, bổn đạo thỉnh Hòa thượng Khánh Anh từ chùa Long An (Đồng Đế – Trà Ôn) về trụ trì chùa Phước Hậu. Hòa thượng Khánh Anh quê tại Quảng Ngãi, vào Nam hành đạo từ mấy mươi năm trước. Ngài là một cao tăng có nhiều đệ tử tài đức.
Năm 1961, do thời gian, chùa Phước Hậu bị xuống cấp. Lúc bấy giờ, Hoà thượng Khánh Anh đang làm Thượng thủ Giáo hội Tăng già toàn quốc. Hoà thượng chuẩn bị trùng tu chùa Phước Hậu thì viên tịch.
Hòa thượng Thiện Hoa kế thế trụ trì chùa Phước Hậu và bắt đầu xây dựng lại ngôi chùa. Tuy danh nghĩa là trụ trì, nhưng Hoà thượng Thiện Hoa là Viện phó, rồi Viện trưởng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất nên phải giao chùa Phước Hậu cho Hòa thượng Thích Hoàn Phú xây dựng tháp Đa Bảo thờ xá lợi đức Phật Thích Ca và các vị tổ sư tiền bối hữu công. Ngoài ra, Thượng tọa Hoàn Phú còn xây dựng nhiều công trình xung quanh chùa Phước Hậu.
Chùa Phước Hậu thuộc xã Ngãi Tứ, huyện Tam Bình
Chùa Phước Hậu hiện nay gồm nhiều công trình : chính điện, trung điện, hậu tổ, tàng kinh các, hệ thống bảo tháp… Trừ chính điện là công trình xây năm 1962, bằng vật liệu hiện đại như bê-tông, xi-măng, gạch ngói, gỗ… theo mô hình kiến trúc kết hợp Đông phương và Tây phương. Còn các công trình khác là các bộ phận của ngôi chùa cũ, có từ năm 1894, tất nhiên có sửa chữa bồi bổ.
Chính điện chùa Phước Hậu hình chữ “sơn”, nhìn xuống dòng sông Ba Sác (một nhánh của sông Hậu). Mặt tiền chùa xây theo kiểu cổ lầu, giữa trang trí mô hình ngôi tháp bảy tầng cao chót vót. Nội điện rộng rãi trang trí đơn giản, nền lót gạch bông, lại có nhiều cửa ra vào nên trông trống trải. Bàn thờ giữa trang trí tượng đức Phật Thích Ca dạng đang tọa thiền dưới gốc bồ đề. Tầng dưới là tượng Thái tử Tất Đạt Đa sơ sinh và bộ tượng Tây Phương Tam Thánh : Di Đà, Quan Âm và Thế Chí. Ưu thế của mô hình này là cùng lúc có thể chứa hàng trăm người hành lễ, hai bên tả hữu ban có hai bàn thờ, đa số là tượng của chùa Đông Hậu cũ còn để lại như tượng Tiêu Diện Đại Sĩ, Hộ pháp Di Đà, Địa Tạng, Chuẩn Đề và “Thập lục La Hán”, bằng gỗ hoặc bằng gốm Cây Mai (Chợ Lớn).
Chùa Phước Hậu được xây dựng theo mô hình hiện đại, nhưng lại là ngôi chùa có rất nhiều câu đối. Nội dung các câu đối này đều ca tụng đức Phật và các vị Bồ Tát, ca tụng địa phương theo quan niệm “địa linh nhân kiệt”, ca tụng đức độ của các vị tổ sư tiền bối hoặc lòng hảo tâm chùa các tín đồ mộ đạo.
Một câu đối ca tụng lòng từ bi của đức Phật Di Đà như sau :
“Như thị ngã văn, cảm ứng tùy tâm, thành tắc hữuNhĩ thời Phật thuyết, viên thông nhập đạo diệu ư vô”.(Ta từng nghe rằng, cảm ứng tùy tâm, thành ắt cóBấy giờ Phật thuyết, viên thông nhập đạo, diệu mà không).
Một câu đối ý nghĩa thâm trầm :Phật cảnh u huyền, như vân quảI sơn đầu, hành đáo sơn đầu, vân cánh viênThiền cơ hạo đảng, tự nguyệt phù thủy diện, bác khai thủy diện, nguyệt hoàn thâm.(Cảnh vật u huyền, như đám mây treo đỉnh núi nhưng người leo đến đỉnh núi thì mây lại xaMái thiền rộng lớn, giống bóng trăng trên mặt nước, nhưng khi khuấy động mặt nước thì trăng càng sâu).
Một câu đối mang nội dung tiến bộ :Phước địa kiến pháp trường, đảo đảo thần quyền trừ ủy mịHậu cơ huy Phật nhật, thủ tiêu ma chương diệt tà mê.(Phước địa dựng pháp trường, đảo đảo thần quyền trừ ủy mịHậu cơ soi Phật nhật, thủ tiêu ma chương diệt tà mê).
Phước Hậu cổ tự là tổ đình Phật giáo dòng Lâm Tế (Chúc Thánh). Dòng Phật giáo này từ Hội An vào Quảng Ngãi rồi vào Trà Ôn. So với các thiền phái khác thì thiền phái Lâm Tế chi nhánh Chúc Thánh đến Vĩnh Long khá muộn, nhưng dòng thiền này đào tạo rất nhiều tăng ni tài đức trong giai đoạn chấn hưng và giai đoạn thống nhất Phật giáo. Riêng trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc, chùa Phước Hậu là nơi nuôi chứa cán bộ cách mạng ngay trong lúc khó khăn nguy hiểm nhất. Nhiều tu sĩ tu học ở chùa, đã tuân lời dạy dỗ của các vị Hòa thượng nghe theo lời kêu gọi của Tổ quốc, đã “cởi áo cà sa, khoác áo chiến bào” và có vị hy sinh trên chiến trường, đến ngày hòa bình không trở về ngôi chùa cũ.
Chùa Phước Hậu, ở ấp Đông Hậu, xã Ngãi Tứ, huyện Tam Bình (ngang thị trấn Trà Ôn ngày nay) đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích lịch sử cách mạng ngày 25 tháng 01 năm 1994 (Quyết Định số 152 QĐ ngày 25/1/1994).
Di chỉ khảo cổ học Thành Mới trải rộng trên địa bàn ấp Ruột Ngựa, ấp Bình Phụng - xã Trung Hiệp và ấp Bình Thành - xã Trung Hiếu – huyện Vũng Liêm. Di chỉ Thành Mới đã được các nhà khảo cổ học người Pháp phát hiện từ đầu thế kỉ XX. Năm 1944, ông Louis Malleret - nhà khảo cổ người Pháp nổi tiếng - đã đến nghiên cứu Thành Mới và mang về Sài Gòn nhiều hiện vật quí, trong đó có pho tượng Phật và tượng Visnu bằng đá.
Trải qua khoảng thời gian dài, công tác nghiên cứu khoa học gián đoạn, di chỉ Thành Mới bị đào bới, xáo trộn nghiêm trọng. Đến thập niên 90 của thế kỷ XX, các nhà khoa học trong và ngoài nước dành nhiều quan tâm đến Thành Mới.
Trong hai năm 1998 - 1999, Viện Khảo cổ học Việt Nam phối hợp với Bảo tàng Vĩnh Long tiến hành khai quật di chỉ Thành Mới. Qua hai đợt khai quật, các nhà khoa học đã làm xuất lộ từ lòng đất hàng ngàn di vật quí bằng các chất liệu : gạch, gốm, đá, gỗ, kim loại… Qua giám định bằng phương pháp phóng xạ C14, các hiện vật Thành Mới có niên đại từ thế kỷ I đến thế kỷ thứ VI sau Công nguyên. Đặc biệt, đây là lần đầu tiên, nhà khảo cổ phát hiện một di chỉ còn nguyên vẹn các tầng văn hóa tại di chỉ cư trú kênh Ruột Ngựa.
Các nhà khảo cổ học nhận định rằng : Từ di tích Thành Mới có thể mở ra hướng đi mới cho việc nghiên cứu văn hóa Óc Eo Đồng bằng sông Cửu Long.
Bởi travinh.gov.com
Nhà cổ Cầu Kè hay nhà Huỳnh Kỳ tọa lạc ở trung tâm thị trấn Cầu Kè, huyện Cầu Kè (nay là xã Cầu Kè, tỉnh Vĩnh Long), cách thành phố Trà Vinh (nay là phường Trà Vinh) khoảng 30km. Ngôi nhà được xây dựng vào năm 1924 theo bản thiết kế của các kiến trúc sư người Pháp. Cũng như nhiều ngôi nhà dân dụng khác, nhà cổ Cầu Kè gồm ngôi nhà chính và một số công trình khác như: rào cổng, nhà sau, nhà kho... Ngôi nhà chính có hình chữ nhật theo hướng Bắc Nam, chiều dài 20m, chiều rộng 18m, bó vỉa nền bằng đá xanh ken nhau dạng nền "kim quy". Nền nhà lót gạch bông với nhiều loại hoa văn khác nhau, mái nhà lợp ngói vẩy cá.
Đây là ngôi nhà có đường nét cổ kính, vật liệu, phong cách trang trí tiêu biểu cho kiến trúc Pháp đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, phần lớn tiện nghi trong nhà cũng như cách bố trí và đề tài một số tranh vẽ thì mang phong cách Á Đông – thuần Việt. Ngôi nhà còn là một công trình đặc sắc về điêu khắc, hội họa. Các tượng, phù điêu trên mái, trên các đầu cột, vòm cửa, các bức họa trên vách, trên trần; cách sử dụng gạch men với nhiều loại hoa văn để trang trí phần sảnh, vách ngoài và sàn nhà đã tạo cho công trình nét độc đáo riêng.
Nhà cổ Cầu Kè là một minh chứng cho lịch sử phát triển kiến trúc Việt Nam, là thời kỳ chuyển tiếp giữa kiến trúc truyền thống sang kiến trúc hiện đại và được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật.
Chùa Hạnh Phúc Tăng – tiếng Khmer là Sanghamangala – tọa lạc tại ấp Trung Trạch, xã Trung Thành, huyện Vũng Liêm. Theo các nhà sư và một số tín đồ cao niên kể lại thì chùa này có niên đại cao nhất so với các chùa Khmer khác trên địa phận hai tỉnh Vĩnh Long - Trà Vinh. Ngôi chùa đầu tiên dựng bằng cây lá đơn sơ vào thế kỷ XIII. Sau nhiều lần trùng tu, ngôi chùa xây năm 1971. Lần trùng tu gần nhất vào năm 1999.
Như những ngôi chùa Khmer Nam bộ, chùa Hạnh Phúc Tăng có khuôn viên rộng 3 ha, quanh chùa bao phủ nhiều cây cao, bóng cả, tạo nên khung cảnh thâm nghiêm trầm mặc.
Ngôi chánh điện nền xây cao, lát gạch, tường bê-tông kiên cố. Riêng phần mái ngói lợp thành ba cấp và cấp trên cùng tạo ra độ dốc 45 độ. Hai đầu hồi là hai hình tam giác. Trên mỗi đầu cột đều có hình nữ thần (Kayno) làm gờ đỡ mái chạm khắc khá tỉ mỉ. Phía trước gian chánh điện là một hệ thống gồm nhiều ngọn tháp đựng linh cốt của các vị sư sãi nhiều đời và tro của tín đồ quanh vùng. Riêng ở khuôn viên chùa có các sima xây trên sân gạch, giống như các am nhỏ. Sima là nơi chôn các “hòn đá kiết giới” thiết lập ranh giới của sự tu hành.
Ở gian chánh điện bày trí các tượng Phật: tượng Phật lúc còn là Thái tử Tất Đạt Đa, tượng Phật đi khất thực, tượng Phật thiền định, tượng Phật nhập Niết bàn. Hai bên bệ thờ còn có tượng chằn reahu đắp nổi.
Phía sau chánh điện là sala, xây theo kiểu nhà ngang, tường gạch mái ngói. Gian giữa sala có bàn thờ Phật quay về hướng Đông. Đây là nơi các sư sãi, Phật tử hội họp, tiếp khách và là nơi tiến hành lễ dâng cơm.
Chùa Hạnh Phúc Tăng nằm trên quốc lộ 53 nối liền hai tỉnh Vĩnh Long - Trà Vinh nên được nhiều người biết đến và thuận tiện cho khách tham quan. Ngôi chùa không rộng lắm, kiến trúc tương đối mới nhưng rất cổ xưa nếu xét về phương diện lịch sử – văn hóa.
Chùa toạ lạc tại ấp Sóc Rừng, xã Loan Mỹ, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long, cách thành phố Vĩnh Long 42 km về phía Đông Nam. Đây là di tích kiến trúc nghệ thuật đặc trưng của người Khmer Nam Bộ. Chùa được Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long công nhận là Di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh vào ngày 23-11-2007, theo Quyết định số 2427/QĐ-UBND.
Chùa được xây dựng cách đây 200 năm với vật liệu tre lá đơn sơn, trong một khu rừng hoang vu, đầm lầy có nhiếu sen mọc. Sau đó chùa bị hoả hoạn. Năm 1884, dân làng góp tiền dựng lại ngôi chùa bằng gỗ. Chùa mang lối kiến trúc nghệ thuật Khmer, các mái làm theo lối so le, ở giữa ba mái xuôi một mái ngang là hình tháp cao 2 m, chóp tháp 5 tầng, xung quanh tượng nữ hần Kayno đỡ tháp. Chùa có nhiều đầu thần xà hình rẻ quạt che đức Phật ngồi thiền. Gian chính điện có hai tầng, tầng trệt thờ tượng Phật Thích Ca. Chùa có 11 tượng Thích Ca lớn nhỏ ở các tư thế thiền định khác nhau và ba tượng Phật cứu độ chúng sinh. Tất cả các tượng cột ngoài đều tạc tượng chim thần Mahaknốt và tượng thần cánh dơi. Chùa là địa điểm tổ chức các lễ hội truyền thống hàng năm của đồng bào Khmer nơi đây.
Chùa Long Khánh tọa lạc tại số 28 – đường 8/3 – khu vực 4 – khóm B – Phường 5 – thành phố Vĩnh Long. Chùa Long Khánh cách trung tâm thành phố Vĩnh Long 1.800 mét về phía Đông Nam.
Chùa Long Khánh được tạo lập từ giữa thế kỷ thứ XIX. Lúc đầu, chùa được cất đơn sơ tre lá. Đến đầu tháng 12 năm 1912, bà Nguyễn Thị Mai – một tín đồ sùng đạo trong làng Long Thanh (tổng Bình Thiềng – Đệ nhất Quận – tỉnh Vĩnh Long) - tự nguyện hiến 5 ha đất để trùng tu ngôi chùa và là nguồn hoa lợi sinh sống cho các vị tu sĩ.
Vào năm 1943, Hoà thượng Thích Pháp Vân – tên thật là Dương Bá Thạnh – sinh năm 1904, quê xã Hậu Lộc, huyện Tam Bình đến chùa Long Khánh làm trụ trì. Ngay thời gian đầu về chùa, thầy Thích Pháp Vân đã nuôi chứa cán bộ cách mạng và tham gia các hoạt động cách mạng: in truyền đơn, biểu ngữ, vận động nhân dân hưởng ứng hiến nhiều tiền bạc ủng hộ cho kháng chiến chống Pháp. Thầy cho xây một vách đôi tại gian hậu Tổ, làm hầm bí mật nuôi chứa cán bộ.
Chùa Long Khánh ở Phường 5 – thành phố Vĩnh Long
Đến năm 1954, đất nước chuyển sang giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, chùa Long Khánh vẫn tiếp tục là cơ sở an toàn của cách mạng.
Năm 1967, do nhu cầu bám trụ trong lòng địch, nhiều cán bộ lãnh đạo của thành phố Vĩnh Long thường xuyên về chùa Long Khánh. Hoà thượng Pháp Vân cùng một số cán bộ đào hầm bí mật tại gian chánh điện. Thời điểm này, chùa Long Khánh là đầu mối liên lạc của nhiều nơi như Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam khu 8, Trí vận và binh vận khu 8, Tôn giáo vận thành ủy Mỹ Tho… Những năm 70, chùa Long Khánh vẫn tiếp tục là nơi nuôi chứa cán bộ, thầy Thích Pháp Vân vẫn quyên góp vật chất để tiếp tế cho bộ đội tới ngày thống nhất đất nước 30/04/1975.
Hơn 30 năm trụ trì chùa Long Khánh, Hoà thượng Thích Pháp Vân đã tạo ra cho cách mạng một cơ sở đáng tin cậy, an toàn, góp phần thực hiện mong ước hòa bình, độc lập của cả dân tộc. Điều đáng nói hơn hết là hoạt động của chùa xuyên suốt từ năm 1943 đến năm 1975 mà không hề bị lộ.
Năm 1979, Hoà thượng Thích Pháp Vân viên tịch, chùa Long Khánh không ai trụ trì. Sau đó, ni sư Thích Nữ Trí Tiên về trụ trì chùa Long Khánh cho tới nay.
Nhìn tổng thể, chùa là một quần thể kiến trúc khá rộng với nhiều tòa nhà nối nhau, bao gồm: chánh điện, thiên tĩnh, phòng khách, phòng thuốc nam, nhà ăn, nhà trù (nhà bếp) và hậu Tổ.
Ngày 17/03/1999 Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã tặng Hoà thượng Thích Pháp Vân Huy chương kháng chiến hạng Nhất vì đã có thành tích trong cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc và Huân chương kháng chiến hạng Nhì vì đã có công lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Chùa Long Khánh được UBND tỉnh Vĩnh Long ra quyết định số 970/QĐ ngày 17 tháng 04 năm 2003 công nhận Di tích lịch sử cách mạng.
Theo Đại Nam nhất thống chí, chùa Tiên Châu do Hoà thượng Huỳnh Đức Hội “khai sơn”. Hòa thượng Đức Hội có pháp danh Tánh Minh, đời thứ 39 phái Lâm Tế, dòng Liễu Quán. Qua pháp danh, chúng ta biết Hoà thượng Đức Hội là đệ tử của Hòa thượng Đạo Thành, người đã khai sáng chùa Khánh Long (Biên Hòa) và chùa Hội Sơn (Thủ Đức). Do đó, có thể suy luận, Hoà thượng Đức Hội là người vùng Biên Hòa - Gia Định. Ngài là vị chủ trì đời thứ ba của chùa Hội Sơn và đến xây dựng chùa Tiên Châu.
Cũng theo Đại Nam nhất thống chí, chùa Tiên Châu ở cù lao sông Tiền thuộc làng Bình Lương và An Thành (nay là ấp Bình Lương, xã An Bình huyện Long Hồ, cách thành phố Vĩnh Long khoảng một cây số, nhưng phải qua sông Cổ Chiên). Tên chính thức của chùa Tiên Châu là Di Đà Tự (Tiên Châu Di Đà Tự) vì chùa này thờ phật Di Đà, giáo chủ cõi Tây Phương cực lạc. Theo truyền thuyết, hai làng Bình Lương và An Thành mặc dù cách nơi đô hội không xa nhưng không khí tĩnh mịch, cây cối tốt tươi. Tại nơi đây có xóm chài lướI, cửa nhà thưa thớt. Những đêm trăng thanh gió mát, thỉnh thoảng có tiên nữ xuống trần tắm gội và đùa giỡn. Do đó, bãi sông này được đặt tên là Bãi Tiên (Tiên Châu) hay bãi Bích Trân. Vùng đất này lại có nhiều rạch lớn, rạch nhỏ, ghe thuyền có thể đi tắt qua lại nên còn tên là bãi Bát Tân (có nghĩa là đi bốn phương tám hướng). Chùa Di Đà ở tại thắng cảnh đẹp như xứ lụa Tô Châu nên còn có tên là chùa Tô Châu.
Sau khi Hòa thượng Đức Hội viên tịch, có Hòa thượng Tế Triệt tức Giác Nguyên ở chùa Sắc Tứ Từ Ân (Gia Định) đến hành đạo. Một thời gian sau, Hòa thượng Tế Triệt về khai sáng chùa Tân Long ở Cao Lãnh, các đệ tử của Ngài tiếp tục sự nghiệp hoằng dương Phật pháp.
Mãi đến cuốI thế kỷ thứ XIX, các vị sư ở chùa Vĩnh Tràng (Mỹ Tho) qua hành đạo. Giai đoạn này, chùa Di Đà đã bị xuống cấp nên tín đồ Phật tử đã trùng tu tái thiết lại ngôi chùa vào năm Kỷ Hợi (1899). Từ đó, ngôi chùa có tên chính thức là Tiên Châu Tự, còn danh hiệu Tiên Châu Di Đà tự gần như đi vào dĩ vãng.
Di Đà Tự là một đại già lam, bãi Tiên là một thắng cảnh. Do đó, từ xưa đến nay có nhiều tài tử giai nhân đến viếng cảnh, ngâm vịnh.
Chùa Tiên Châu – cù lao An Bình
Nhà thơ Nguyễn Hữu Đức có bài thơ vịnh Bãi Tiên như sau : Tiên Châu giăng trước Vĩnh Long thành Đây rộn rịp nhiều đó vắng tanh Khuất nửa cỏ cây nhà trắng trắng Chia hai trời nước liễu xanh xanh Cảnh người ngày tháng ba thằng mục Chùa Phật hôm mai một tiếng kình Danh lợi vì đây lòng chẳng tưởng Bốn mùa phong cảnh có ai tranh.
Hiện nay cảnh vật nơi đây đã có nhiều đổi thay. Xung quanh chùa Tiên Châu hiện nay trở thành khu lao động, cửa nhà san sát.
Chùa Tiên Châu hiện giữ được quy mô năm Kỷ Hợi (1899), gồm bốn nóc : tiền đường, chánh điện, trung đường và hậu tổ. Các khu vực vừa kể thường làm theo kiểu tứ trụ, được nớI rộng theo chiều ngang dọc nhờ các kèo đấm kèo quyết. Bộ giàn trò bằng gỗ quý, mái ngói âm dương, xung quanh đóng vách bổ kho.
Nội điện chùa Tiên Châu được trang trí đẹp đẽ. Giữa tứ trụ là một khánh thờ, bên trong tôn trí một pho tượng Phật Di Đà bằng đất sét khổng lồ. Hai bên khánh thờ có câu đối sơn mài, khắc dòng chữ : Phật nhật tăng huy vĩnh thùy vạn cổ Pháp luân thường chuyển biến thập phương Dưới tượng Di Đà vừa kể là bộ tượng Tam Thế, tượng Thích Ca tọa thiền, Thích Ca sơ sinh. Phía sau, đâu lưng với tượng Di Đà là tượng Di Lặc cũng to lớn đặc biệt.
Hai bên vách hông là khánh thờ thần Già Lam, khánh thờ Tổ sư Bồ Đề Lạt Ma, Thập Điện Diêm Vương, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Nam Tào, Bắc Đẩu, Địa Tạng, Chuẩn Đề, Hộ Pháp, Tiêu Diện Đại Sĩ.
Chùa có một bộ bao lam chạm Thập Bát La Hán, hai bộ chạm hoa điểu khá tinh tế.
Trung Đường và nhà tổ là nơi thờ các vị Tổ sư Tiền bốI và thiện nam, tín nữ đã quá vãng. Đây cũng là nơi tiếp khách nên treo rất nhiều tranh khuyến thiện và những câu đối có ý nghĩa thâm trầm: Mộ cổ thành chung, cảnh tỉnh ái hà danh lợi khách Kinh thanh Phật hiệu, hoán hồi khổ hải mộng mê nhân. (Sáng trống chiều chuông, cảnh tỉnh khách say dòng danh lợi LờI kinh hiệu Phật, đổi thay người mộng mê trong biển khổ)
Trong một thế kỷ nay, chùa Tiên Châu được sửa đổi nhiều lần mà lần sửa đổi quan trọng nhất là xây dựng mặt tiền vào năm 1960 như chúng ta thấy hiện nay. Lần xây dựng này dùng toàn vật liệu hiện đại. Giữa là một căn nhà lầu có năm ngọn tháp trong tôn trí tượng Phật Thích Ca, nhưng phía trước có ba chữ “Tiên Châu Tự” và một câu đối ca tụng. Hai gian bên làm theo kiểu cổ lầu, trong tôn trí tượng Thiện Hữu và Ác Hữu, cũng có hoành phi, câu đối ca tụng.
Chùa Tiên Châu được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận Di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1994 (Quyết định số 3211-QĐ, ngày 12/12/1994).
Chùa Toà Sen toạ lạc tại ấp Hoá Thành, xã Đông Thành, huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long. Tổng diện tích của chùa là 17.780 mét vuông. Chùa có khuôn viên rộng rãi, thoáng mát, có vườn cây cổ thụ và cây ăn trái. Các công trình kiến trúc được xây dựng bằng bê-tông cốt thép.
Chùa Toà Sen được xây dựng vào năm 1800. Lúc đầu xây dựng đơn sơ, mái lợp lá, cột gỗ, vách ván với tên gọI là Chắc-bai, có nghĩa là “đổ cơm”. Chùa Chắc-bai lúc đó do sư cả Sơn Sóc trụ trì. Sau đó, chùa Chắ-bai đổi thành chùa Wêt-ta-sel. Hiện nay, chùa có tên gọI Sensary Satthiaram, thường gọI là chùa Toà Sen.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp – Mỹ, chùa Toà Sen là cơ sở cách mạng, có vị trí hết sức quan trọng của xã Đông Thành cũng như của huyện Bình Minh và tỉnh Vĩnh Long, có lúc còn là của cả khu Tây Nam bộ. Chùa là chỗ dựa vững chắc cho cán bộ, chiến sĩ nhiều đơn vị bám trụ hoạt động cách mạng.
Chùa Toà Sen, ở ấp Hoá Thành – Đông Thành – Bình Minh – Vĩnh Long
Trong kháng chiến chống Pháp, chùa là nơi nuôi chứa các đồng chí đảng viên của xã Đông Thành, có giai đoạn bí mật, có giai đoạn công khai. Trong giai đoạn này, sự kiện điển hình là các sư sãi cùng nhân dân Hóa Thành dướI sự lãnh đạo của Đảng vùng lên cướp chính quyền tháng 8/1945. Sau Cách mạng tháng Tám, chùa là địa điểm hội họp và tiếp tục nuôi chứa cán bộ cách mạng. Bên cạnh đó, các nhà sư cùng Phật tử đấu tranh vớI quân Pháp, không cho chúng đóng đồn trong chùa.
Trong kháng chiến chống Mỹ, chùa là nơi bảo vệ cán bộ cách mạng. Các sư bố trí lực lượng theo dõi địch ở Cái Vồn, Tam Bình, Trà Ôn. Khi có địch đi càn, cơ sở báo cho sư cả biết để báo động cho cán bộ kịp thời sơ tán. Để đề phòng bất trắc, sư cả cho làm hầm bí mật tại chánh điện. Gặp địch đi càn, sư cả cho cán bộ trú ẩn dướI hầm bí mật hay ở trên liêu. Chùa bảo vệ an toàn cho cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn Lý Thường Kiệt, cán bộ hoạt động cách mạng tại địa phương. Nơi đây còn là cơ sở đặt Trường Đảng, Ban Tuyên huấn của tỉnh, Ban in ấn…
Vào các ngày lễ tết, các sư đón Đoàn Văn công của tỉnh về chùa phục vụ văn nghệ . Sân khấu được ghép bằng ván ngựa của bà con xung quanh tại sân chùa, đốt đèn măng-sông. Đoàn diễn vở “Giải phóng Phật đường” của hai tác giả Trọng Thu và Trần Mộng trong dịp tết Chol Chnam Thmây (năm 1963), thu hút đông đảo nhân dân đến xem. Tác giả lấy sự kiện có thật ở chùa Ô Mịch (Trà Vinh) : địch phá chùa để xây dựng ấp chiến lược và Đảng đã lãnh đạo nhân dân Kinh – Khmer dùng ba mũi giáp công để giải phóng Phật đường. Hôm sau, giặc càn vào phá chùa Toà Sen, lập ấp chiến lược. Nhân dân Hoá Thành đã biến kịch bản sân khấu thành cuộc đấu tranh thật, không cho giặc phá chùa và đã thành công.
Từ năm 1948 đến 1967, các đồng chí lãnh đạo Đảng của xã Đông Thành và một số các đồng chí Huyện uỷ Bình Minh được sư Thạch Rền nuôi chứa. Từ năm 1954, sư Thạch Rền không còn trụ trì chùa, nhưng với uy tín của mình, sư Thạch Rền vẫn tiếp tục che giấu và bảo vệ an toàn cho cán bộ cách mạng. Năm 1968, sư cả Thạch Hanh lên trụ trì. Chùa Toà Sen tiếp tục là cơ sở cách mạng. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, sư cả Thạch Rền và sư cả Thạch Hanh không quản ngại hy sinh, nguy hiểm, đóng góp nhiều công lao cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng quê hương. Với thành tích đó, năm 1996, sư cả Thạch Rền được Thủ tướng Chính phủ truy tặng Bằng khen, sư cả Thạch Hanh được tặng Huy chương Đại đoàn kết dân tộc, Huân chương kháng chiến hạng Nhất (1996), Bằng khen của Mặt trận Tổ quốc tỉnh Vĩnh Long.
Chùa Toà Sen được UBND tỉnh công nhận di tích cấp tỉnh (Quyết định số 892/QĐ-UB, ngày 08/4/2004).
Khu tưởng niệm Cố Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng được khởi công xây dựng ngày 02 tháng 10 năm 2000 và khánh thành ngày 11 tháng 06 năm 2004 nhân dịp 92 nămngày sinh của ông. Khu tưởng niệm được xây dựng tại ấp Long Thuận A - xã Long Phước – Huyện Long Hồ.
Sinh ra và lớn lên từ gia đình trung nông, có truyền thống gia giáo, thời niên thiếu của ông gắn liền với một bối cảnh lịch sử đầy những bất công, khổ cực của những người dân thuộc địa. Trải qua bậc tiểu học tại trường Internate - Primaire (Vĩnh Long) và bậc trung học tại trường Collège De My Tho (tỉnh Mỹ Tho)… và trường học cũng là nơi mở đầu cho những trang sử hoạt động cách mạng của thời thanh niên Phạm Văn Thiện : Tham gia vào các tổ chức cách mạng trong những năm đầu thế kỷ XX : Nam kỳ học sinh Liên hiệp hội, Thanh niên cộng sản Đoàn, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930, từng là Bí thư Chi bộ trường, hoạt động qua các cấp Chi ủy xã, huyện, tỉnh ở Mỹ Tho. Sau việc tham gia trong sự kiện biểu tình và xử tội tên Hương quản gian ác Đặng Văn Trâu tại xã Tam Hiệp – huyện Châu Thành – tỉnh Mỹ Tho nhân dịp kỉ niệm Ngày Quốc tế Lao động 1 tháng 5 năm 1931, ông bị bắt và bị giải đi qua các nhà tù : từ nhà tù Mỹ Tho đến xà lim án chém Sài Gòn “vụ án Đảng cộng sản Đông Dương” năm1933 với hai án tử hình. Sau, nhờ phong trào đấu tranh dân chủ trong nước và nhân dân các nước tiến bộ, ông được giảm xuống thành án chung thân khổ sai và đày đi Côn Đảo… Mười một năm sống tại “địa ngục trần gian” với bao câu chuyện kể về người tù nhân mang bí danh anh Hai Hùng… Ngày 23 tháng 8 năm 1945, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ông được Đảng và Chính phủ ta đón về đất liền và tiếp tục cuộc đời cách mạng, tham gia trong hai cuộc kháng chiến đánh Pháp – đuổi Mỹ với những trọng trách : Bí thư Xứ ủy lâm thời Nam Bộ, Giám đốc Ty Công an Nam Bộ, Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Chính ủy Bộ Chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh… Ông đã góp phần to lớn vào sự thắng lợi trong công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Bước vào đầu ngày giải phóng miền Nam, trải qua những năm tháng hàn gắn vết thương chiến tranh, cải tạo xã hội miền Nam, xây dựng miền Bắc cho đến những năm tháng khởi đầu cho sự nghiệp đổi mới đất nước… từ Bắc đến Nam, trong nhiều lãnh vực, với những trọng trách : Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Bộ Nội Vụ, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam… đồng chí Phạm Hùng đã tận tâm tận lựcc ống hiến đến cuối cuộc đời mình để lo cho dân, cho nuớc.
Khu tưởng niệm đồng chí Phạm Hùng – mặt trước
Ngày 9 tháng 3 năm 1988, đồng chí Phạm Hùng đã vĩnh biệt chúng ta trong lúc đang công tác tại thành phố Hồ Chí Minh.
Cuộc đời và tấm gương của một nhà lãnh đạo trung kiên – mẫu mực Phạm Hùng đã được đất nước, quê hương và nhân dân muôn đời tưởng nhớ như bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tại buổi lễ truy điệu đồng chí Phạm Hùng : “Công lao của đồng chí Phạm Hùng đối với sự nghiệp nước ta rất to lớn. Cuộc đời hoạt động sôi nổi và phong phú của đồng chí là một tấm gương sáng đối với mọi người cộng sản và mọi người Việt Nam ta. Đồng chí không còn nữa, nhưng hình ảnh đồng chí sống mãi trong trái tim chúng ta… ”
Để tưởng nhớ công lao của một người con ưu tú của dân tộc, của quê hương, Tỉnh ủy – Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long dã cho xây dựng Khu tưởng niệm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng – một công trình của trái tim – để giáo dục truyền thống cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Khu tưởng niệm Cố Chủ tịch HĐBT Phạm Hùng – sân trong
Khu tưởng niệm đồng chí Phạm Hùng với tổng diện tích 3,2 ha, gồm các hạng mục chính :
- Nhà lễ tân : diện tích 300 mét vuông, là nơi đón tiếp khách đến tham quan khu tưởng niệm.
- Nhà tưởng niệm : diện tích 1.050 mét vuông, là nơi thắp hương tưởng niệm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng.
- Nhà trưng bày : diện tích 670 mét vuông, là nơi trưng bày hình ảnh - tư liệu – hiện vật chuyên đề : Thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng.
Ngoài ra, còn có ba hạng mục ngoài trời được phục chế theo tỷ lệ 1/1, gồm : phòng biệt giam đồng chí Phạm Hùng tại Côn Đảo từ 1934 đến 1945, ngôi nhà làm việc của đồng chí Phạm Hùng tại căn cứ Trung ương Cục miền Nam (tỉnh Tây Ninh) từ 1967 đến 30 tháng 4 năm 1975 và căn phòng làm việc của đồng chí Phạm Hùng tại số 72 Phan Đình Phùng - Hà Nội từ năm 1958 đến năm 1967 và từ năm 1978 đến năm 1988.
Với một khuôn viên rộng, một bố cục tổng thể cân đối, hài hòa và một cấu trúc nghệ thuật đơn giản nhưng trang nghiêm, thanh thoát, hài hòa với cảnh quan thiên nhiên, Khu tưởng niệm đồng chí Phạm Hùng xứng đáng với tầm cỡ một công trình lịch sử văn hóa “Đẹp về hình thức, tốt về nội dung… ” như lời của đồng chí Trương Mỹ Hoa - Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nhân chuyến về thăm Vĩnh Long ngày 27 tháng 7 năm 2004.
Trong hai thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Vĩnh Long trở thành chiến trường ác liệt vào bậc nhất ở ĐBSCL. Xuất phát từ vị trí xung yếu của Vĩnh Long, kẻ địch luôn dồn sức mạnh nhằm khống chế bằng được địa bàn này. Về phía ta, quân dân Vĩnh Long dưới sự lãnh đạo của Đảng kiên trì bám trụ, giành giật với địch từng tấc đất quê hương. Vì Vĩnh Long địa hình trống trải, không rừng, không núi, sông rạch chằng chịt nên vấn đề bám trụ địa bàn hoạt động là vấn đề sinh tử đối với cách mạng tỉnh nhà.
Trong hoàn ảnh lịch sử ấy, Tỉnh ủy Vĩnh Long – cơ quan đầu não lãnh đạo toàn diện cuộc kháng chiến của toàn tỉnh – vẫn tồn tại để hoàn thành sứ mệnh lịch sử giao phó. Vượt lên bao khó khăn thử thách, Tỉnh ủy Vĩnh Long tồn tại chỉ đạo mọi phong trào tỉnh nhà đi đến thắng lợi chính là do Tỉnh ủy Vĩnh Long luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng bộ Vĩnh Long dựa hẳn vào dân, động viên sức mạnh to lớn, sức sáng tạo vô biên của nhân dân nhằm vào mục tiêu chiến thắng kẻ thù xâm lược.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Tỉnh ủy Vĩnh Long di chuyển liên tục khắp địa bàn Vĩnh Long. Giai đoạn từ 1954 đến 1966, Tỉnh ủy Vĩnh Long đã di chuyển hơn 29 điểm.
Năm 1966, Tỉnh ủy Vĩnh Long quyết định chọn Cái Ngang làm khu căn cứ chủ yếu. Năm 1967, Tỉnh ủy chuyển hẳn về khu căn cứ cách mạng Cái Ngang thuộc ấp 4 - xã Mỹ Lộc, nay là ấp 4 - xã Phú Lộc - huyện Tam Bình.
Khu di tích cách mạng Cái Ngang là vùng đất liên hoàn nhiều xã của huyện Tam Bình; là vùng căn cứ của Tỉnh ủy Vĩnh Long qua nhiều thời kỳ. Đây là nơi nhân dân Vĩnh Long dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Vĩnh Long đoàn kết chiến đấu, một lòng chăm lo cho sự nghiệp cách mạng. Mặc dù phải đương đầu với kẻ địch đông về số lượng, trang bị hiện đại và có nhiều thủ đoạn thâm độc, nhưng quân dân ta vẫn chiến đấu kiên cường và trưởng thành mạnh mẽ.
Cơ quan Tỉnh ủy lúc đó chỉ có một nhà làm việc và một điểm nấu ăn. Công trình được xây dựng thấp, nằm gọn dưới các tàng cây để tránh máy bay địch phát hiện. Xung quanh nơi làm việc bố trí đầy đủ các hầm trú ẩn tránh bom pháo. Hệ thống hầm bí mật được Ban Căn cứ chuẩn bị chu đáo, đủ sức phục vụ Ban Chấp hành Tỉnh ủy trong các kỳ họp.
Tỉnh ủy Vĩnh Long lúc đó có 13 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Ký Ức làm Bí thư Tỉnh ủy.
Khu căn cứ cách mạng Cái Ngang ở ấp 4 - xã Phú Lộc - huyện Tam Bình - tỉnh Vĩnh Long
Các bộ phận chuyện môn thường trực tại khu căn cứ gồm :
Chính tại khu di tích cách mạng, qua các thời kỳ kháng chiến, Tỉnh ủy Vĩnh Long đã đề ra những chủ trương, nghị quyết mệnh lệnh toàn quân, toàn dân chiến đấu và chiến thắng. Trong các chỉ thị, nghị quyết đó, nổi bật là lệnh Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Việc giữ gìn và phát huy giá trị di tích căn cứ cách mạng Cái Ngang từ lâu đã trở thành nhu cầu bức xúc của Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Long. Vì vậy, khi Tỉnh ủy Vĩnh Long có chủ trương khôi phục Khu di tích cách mạng Cái Ngang đã được sự đồng tình, thống nhất cao của các ban, ngành, đoàn thể và nhân dân trong tỉnh.
Ngày 1 tháng 8 năm 2001, Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long ra Quyết định số 2176/QĐ.UB về việc “Phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình trùng tu - tôn tạo Khu di tích căn cứ cách mạng Cái Ngang tỉnh Vĩnh Long”.
Khu di tích cách mạng Cái Ngang có diện tích 5 ha, chia thành hai phần : phần ruộng lúa và phần vườn cây. Tổng thể di tích cũng gồm hai phần : phần phục dựng, tôn tạo và phần xây dựng mới.
Phần phục dựng, tôn tạo :
Thăm Khu di tích cách mạng Cái Ngang
Các công trình xây dựng mới :
Trong tình hình đất nước đang hội nhập với thế giới, trên tinh thần đa phương hóa, đa dạng hóa, vấn đề khôi phục Khu di tích cách mạng Cái Ngang tỉnh Vĩnh Long càng trở nên bức thiết. Khi công trình trùng tu, tôn tạo hoàn thành đưa vào phục vụ, đây sẽ là nơi thu hút khách tham quan trong tỉnh, ngoài tỉnh và khách nước ngoài.
Di tích căn cứ cách mạng Cái Ngang là nơi khơi gợi nguồn sức mạnh từ lịch sử hào hùng để động viên toàn Đảng toàn quân, toàn dân Vĩnh Long anh hùng cùng cả nước vững bước trên con đường xây dựng và bảo vệ quê hương Vĩnh Long ngày một giàu đẹp, vững bền.
Ngày 9/8/2003, Khu di tích căn cứ kháng chiến Cái Ngang được Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long trọng thể tổ chức khánh thành, đưa vào phục vụ khách tham quan.
Hiện nay, di tích đặt dướI sự điều hành hoạt động của Ban quản lý di tích, cán bộ thuyết minh luôn sẵn sàng phục vụ khách tham quan.
Đình Bình Phụng thuộc ấp Bình Phụng, xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm. Đình được tạo lập vào năm 1920, bằng tre lá đơn sơ, thờ thần Thành Hoàng bổn cảnh và những bậc tiền nhân có công với làng xã. Bên cạnh đó, dân làng còn thờ ông Tà theo tín ngưỡng dân gian Khmer.
Năm 1925, đình được trùng kiến theo một ngôi đình Nam bộ truyền thống. Đình có kiến trúc hình chữ tam, gồm võ quy, võ ca và chánh điện.
Trong kháng chiến chống Pháp, đình Bình Phụng là một trong những địa điểm liên quan đến cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Cuối năm 1940, thực dân Pháp đàn áp phong trào Nam Kỳ khởi nghĩa, lục soát ngôi đình và bắt đi hơn 20 nghĩa quân.
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, chính quyền cách mạng sử dụng đình Bình Phụng làm trụ sở Ủy ban Hành chính xã, là nơi hội họp các đoàn thể như Phụ nữ, Thanh niên Tiền phong… của xã Trung Hiệp.
Đình Bình Phụng ở ấp Bình Phụng – Trung Hiệp – Vũng Liêm – Vĩnh Long
Cuối năm 1946, thực dân Pháp phá hủy hoàn toàn đình Bình Phụng, đem cây gỗ về cất trại lính ở Mai Phốp (Trung Hiếu).
Đến năm 1955, đình được dựng tạm cách nền đình cũ khoảng 400 mét về hướng cầu Sẹo (nay là Trường Tiểu học cấp I A, xã Trung Hiệp).
Năm 1994, đình dời trở về vị trí ban đầu.
Ngày 21/4/2002, đình Bình Phụng được khởi công xây dựng lại hoàn toàn mới trên diện tích 3.050 mét vuông, bao gồm chánh điện, nhà khói và sân khấu. Đình có khoảng sân rộng, trồng nhiều hoa kiểng, cây xanh. Khoảng sân đủ sức chứa đông người, tập trung trong các dịp lễ hội. Trong sân đình có một bia sự kiện Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940. Bia làm bằng nguyên khối đá hoa cương màu đỏ do cựu nghĩa quân Phan Văn Hòa (Võ Văn Kiệt) phụng lập, ghi lại sự kiện Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940.
Hằng năm đình có hai lệ cúng chính là :- Lễ Hạ Điền ngày 17/3 âm lịch- Lễ Thượng Điền 17/10 âm lịch
Đình Bình Phụng được thành lập vào năm 1920, khá muộn so với các đình khác trong tỉnh. Vì bị thực dân Pháp thiêu hủy hoàn toàn vào năm 1946 nên tính đến thời điểm trùng tu quy mô vào năm 2003 thì đình đã hoàn toàn thay đổi so với một mái đình đơn sơ tre lá của thuở ban đầu.
Đình Bình Phụng được UBND tỉnh công nhận di tích cấp tỉnh (quyết định số 970/QĐ.UBT, ngày 17/4/2003).
Đình Bình Phước tọa lạc tại ấp Phước Trinh A, xã Bình Phước, huyện Mang Thít, cách trung tâm thành phố Vĩnh Long 10 km về phía Đông Nam. Đường đi tới di tích thuận lợi cho du khách cả đường thủy lẫn đường bộ.
Vào năm Mậu Thìn (1808), đình được tạo lập đơn sơ với nền đất cột cây, mái lá. Đến năm 1845, đình bị hư hại nặng và để thuận tiện cho việc thờ cúng, đình được dời về ấp Phước Trinh, trên phần đất được hiến 3.000 mét vuông của một người hảo tâm trong làng là cụ Đặng Văn Hướng. Ngôi đình trên phần đất mới này khá hơn ngôi đình cũ nhưng cũng chỉ là cây gỗ, mái ngói. Đến năm Tự Đức thứ 5 (1853), đình Bình Phước được triều đình Huế sắc phong Bổn cảnh Thành hoàng chi thần và chính thức mang tên "Đình Bình Phước".
Vào khoảng năm 1927, đình bị xuống cấp. Ban hội hương đã huy động dân trong làng được số tiền lớn và bắt đầu kiến thiết lại toàn bộ ngôi đình. Lúc này, đình Bình Phước thật khang trang, gồm 3 gian: võ ca, võ quy và chánh điện, gian nào cũng trang nghiêm và lộng lẫy. Cổng tam quan được trang trí "Lưỡng long tranh châu" bằng gốm thật đẹp. Còn trong sân đình trồng nhiều hoa kiểng quí hiếm. Đình không những là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân Bình Phước, mà còn đẹp về mặt cấu trúc của một ngôi đình làng truyền thống vùng Nam Bộ.
Từ năm 1930 – 1945, để đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong làng, đình Bình Phước còn là trường học đầu tiên của xã để khai trí cho con em trong làng. Tháng 6/1945, đình Bình Phước là nơi tổ chức cuộc họp phụ nữ và bầu BCH Phụ nữ Tiền phong. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, tại đình diễn ra "Tuần lễ vàng" ủng hộ cuộc kháng chiến.
Do nhu cầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đình trở thành trụ sở làm việc và là nơi bảo vệ cách mạng như: Ủy ban Nhân dân, Mặt trận Việt Minh, Thanh niên Tiền phong, Ủy ban Kháng chiến, Hội Phụ nữ, Trạm Y tế của xã Bình Phước. Đây còn là nơi tổ chức các buổi diễn thuyết về phong trào cách mạng.
Năm 1949, để chống lại âm mưu của địch chiếm đình làm nơi đóng quân chống phá cách mạng, chính quyền cách mạng yêu cầu nhân dân dỡ bỏ đình Bình Phước.
Đến những năm 1952 – 1953, dân làng cất lại ngôi đình bằng tre lá trên nền đình cũ để có nơi thờ thần và cúng tế hằng năm. Dù không còn qui mô và kiến trúc như xưa, nhưng năm 1955, đình vẫn tiếp tục làm cơ sở bí mật của cách mạng. Từ năm 1957, để nơi thờ thần được khang trang hơn, nhân dân Bình Phước cùng nhau đóng góp công, của để trùng kiến lại ngôi đình mới trên nền đình cũ. Việc trùng kiến đình kéo dài từ năm 1957 – 1959 mới hoàn thành. Do lần trùng kiến này, điều kiện kinh tế của dân làng còn hạn hẹp nên chỉ khôi phục được hai phần gồm chánh điện và võ quy.
Sau khi trùng kiến, đình tiếp tục nuôi chứa và là điểm tựa cho cách mạng địa phương đến ngày giải phóng.
Đình Bình Phước ngày nay được Hội hương đình gìn giữ và tổ chức lễ hội hàng năm theo truyền thống.
Lễ hội diễn ra tại đình: - Lễ khai sơn: diễn ra vào ngày mồng 4/1 (âm lịch). - Lễ hạ điền: diễn ra vào ngày 16 – 17/4 (âm lịch). - Lễ thượng điền: diễn ra vào ngày 16 – 17/11 (âm lịch).
Khi đến đây, du khách có thể cảm nhận được giá trị của một ngôi đình không chỉ về kiến trúc, mà còn về giá trị lịch sử trong hai cuộc chiến vừa qua.
Đình Bình Phước nằm trong danh sách được Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định xếp hạng Di tích lịch sử cách mạng cấp tỉnh.
Đình Hậu Thạnh toạ lạc tại ấp Tân Thạnh, xã Lục Sĩ Thành, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long.
Buổi đầu khai hoang mở đất, dân gian lưu truyền có bà Trần Thị Vạn, gốc Bình Định, là người đầu tiên đến đây lập nghiệp. Đến khi dân cư đông đúc, để cầu cho mưa thuận gió hòa, nhân dân làm ăn phát đạt và bình yên nên đình thần được xây dựng nhằm đáp ứng đời sống tâm linh của bà con trong vùng. Ngôi đình đầu tiên chỉ cất đơn sơ cột cây, lợp lá, nền lát gạch tàu tại vàm Ngã Bát cách vàm Trà Ôn 1.000 mét. Năm 1924, bà con trong vùng quyên góp xây dựng đình bằng gỗ căm xe, thao lao và hoàn thành cuối năm với đầy vẻ uy nghi, đáp ứng đời sống tâm linh của bà con vùng sông nước cù lao.
Đầu thế kỷ XX, có ông Trần Đại Cang và Nguyễn Văn Sầm từ Quảng Ngãi vào. Hai ông đã từng tham gia phong trào Cần Vương, vì bị theo dõi và truy bắt của địch nên chạy vào Nam, định cư tại làng Hậu Thạnh. Nhờ có kiến thức về Nho học, hai ông đã mở lớp dạy học, hốt thuốc trị bệnh cho nhân dân, được nhân dân tín nhiệm và hết lòng thương yêu. Hai ông đã bí mật sử dụng đình làm nơi hoạt động. Đến năm 1930, có ông Nguyễn Phụ đến làng Hậu Thạnh tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước cho các ông Lương Châu Trân, Nguyễn Hữu Thuần, Ngô Công Kiều, Trần Đại Minh, Nguyễn Thế Thao. Các ông đều là con cháu trong ban Hội Hương đình. Tại đình, các hội yêu nước lần lượt được thành lập như : Hội Khoai lang, Hội Ái hữu Hương tế, Hội Khuyến học… Các hội đã lấy đình làm nơi giao tiếp, hội họp, diễn đàn hợp pháp để đấu tranh.
Từ năm 1930 – 1945, tại đình đã mở nhiều lớp học tập và huấn luyện quân sự như : lớp tập huấn thanh niên yêu nước, lớp tập luyện quân sự, do các ông Nguyễn Toàn Tuất, ông Hạnh chủ trì.
Đình Hậu Thạnh
Tháng 8/1945, tại đình đã tập hợp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và từ tiếng mõ ngân vang của đình đã rầm rộ cướp chính quyền trong xã và sang quận Trà Ôn, góp phần cùng chung cả nước làm nên cuộc cách mạng tháng Tám thành công.
Năm 1946, thực hiện chiến lược tiêu thổ kháng chiến chống Pháp "vườn không nhà trống", ban Hội Hương đình cùng bà con dân làng đồng tâm phá bỏ các bức tường xung quanh để không cho giặc Pháp chiếm đóng làm đồn chống phá cách mạng. Đình đã hiến các cây cổ thụ như sao, dầu cho quân khu làm ghe, xuồng chở bộ đội và tiếp tế lương thực phục vụ kháng chiến.
Đầu năm 1946, Cù lao Mây được đổi tên là Lục Sĩ Thành để tỏ lòng tiếc thương và tưởng nhớ người chiến sĩ cách mạng, người con ưu tú của quê hương đã anh dũng ngã xuống mang tên Lục Sĩ Thành. Cũng trong năm này, các lớp tiếp tục mở như : lớp huấn luyện Cộng hòa Vệ binh, lớp tập huấn cho Thanh niên Tiền phong, lớp huấn luyện quân sự xã do các ông Nguyễn Văn Bân, Nguyễn Văn Ba chủ trì.
Năm 1949, cơ quan hành chánh kháng chiến sử dụng đình làm nơi làm việc. Năm 1951 – 1960, Ban Tế tự đình cử người có học ra dạy con em trong làng từ lớp một đến lớp ba và lấy đình làm nơi dạy học.
Năm 1964, lực lượng cách mạng tiếp tục sử dụng đình làm nơi huấn luyện quân sự, đặt Sở Chỉ huy để chỉ đạo phong trào cách mạng, làm nơi hội họp vạch kế hoạch tiêu diệt tiểu đội dân vệ đi lùng sục cách mạng, bảo vệ được cơ sở.
Năm 1965 – 1967, địch tăng cường càn quét và đóng đồn rộng khắp trên mảnh đất cù lao. Bọn chỉ điểm săn lùng cán bộ cách mạng, gây cho ta nhiều tổn thất. Trước tình hình khó khăn đó, Chi bộ Lục Sĩ Thành đã mở cuộc họp và đi đến thống nhất phân tán lực lượng sang địa bàn khác hoạt động như cù lao Tích Thiện, Thiện Mỹ, Kế Sách, Châu Thành (Cần Thơ) và một số bổ sung cho bộ đội Tây Đô. Đến tháng 5/1970, du kích lần lượt trở về quê hương, tiếp tục chiến đấu, không vào ở nhà dân và cơ sở như lúc trước, mà chỉ ở ngoài vườn, phải ngủ hầm, ở bụi, nhưng vẫn chiến đấu kiên cường, bao vây đồn, liên tục gây cho địch nhiều tổn thất cho đến ngày 30/4/1975 cùng góp phần vào giải phóng hoàn toàn miền Nam nói chung và quê hương Lục Sĩ Thành nói riêng.
Trải qua bao thăng trầm của thời gian và qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đình Hậu Thạnh vẫn sống mãi với thời gian và gắn liền với hai cuộc đấu tranh kiên cường của dân tộc. Đến nay, đình vẫn còn mang đậm nét đình làng Nam bộ với vẻ uy nghi. Trong đình còn lưu giữ nhiều hiện vật quí giá. Hàng năm, dân làng tề tựu về đây cầu cho mưa thuận gió hòa và thưởng thức nghệ thuật dân gian.
Đình Hậu Thạnh được xếp hạng di tích Lịch sử – văn hóa năm 2005.
Di tích tọa lạc tại ngã ba Đình thuộc ấp Hòa Thuận, xã Hòa Ninh, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.
Đình thần Hòa Ninh xưa được xây dựng vào năm Kỷ Dậu 1849. Đình cất trên phần đất rộng 2.000 mét vuông của ông Huỳnh Văn Phuông. Sau đó, Hội Hương của đình Hòa Ninh mua thêm 10.000 mét vuông, mở rộng phạm vi của đình để thuận tiện cho việc thờ cúng chiêm bái của dân làng.
Ngôi đình xưa có khoảng sân rộng. Đình nằm cách thành phố Vĩnh Long về phía Bắc cũng khoảng 4 km. Kiến trúc đình theo kiểu đình làng Nam bộ truyền thống. Đình gồm 3 gian: võ ca, võ quy và chánh điện, mái lợp ngói âm dương, nền lót gạch tàu.
Đến năm Tự Đức ngũ niên (1852), đình Hòa Ninh được sắc phong Thành Hoàng bổn cảnh. Năm 1902, đình bị sụp đổ, hư dột, dân làng Hòa Ninh hợp sức đóng góp sức người, sức của, dựng lại ngôi đình mới trên nền đình cũ.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, do yêu cầu tiêu thổ kháng chiến, Hội Hương đình Hòa Ninh đồng ý phá hủy ngôi đình vào tháng 8 năm 1948. Năm 1949, do nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân, Hội Hương đình đã dựng tạm ngôi đình đơn sơ trên nền cũ. Năm 1970, đình được tôn tạo lại lần nữa.
Đình Hoà Ninh
Ngày 08/8/1995, dân làng Hòa Ninh khởi công trùng kiến ngôi đình, đến ngày 16/11/1995 hoàn tất công trình.
Khoảng năm 1868 - 1870, khu vực đình Hòa Ninh cây cối rậm rạp, nghĩa quân của cụ Võ Minh Chơn, hậu duệ của cụ Võ Duy Dương (Thiên Hộ Dương), tụ họp nơi đây để đánh Tây. Cụ Chơn khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười, vì bị bệnh nên tạm lánh về Hòa Ninh, nuôi dưỡng lực lượng chống Tây lâu dài. Thực dân Pháp phát hiện lực lượng nghĩa quân nên ruồng bố ráo riết. Chúng bắt được cụ Võ Minh Chơn và ông Xã Sĩ. Thực dân Pháp dụ hàng nhưng hai cụ cương quyết không chịu. Chúng đem hai cụ ra hành quyết tại ngôi đình Hòa Ninh này nhằm đàn áp phong trào Cần Vương và khủng bố tinh thần của nhân dân. Ngôi mộ của hai cụ nằm trong đất đình Hòa Ninh. Do có sự thay đổi trong quá trình quản lý đất đai, hiện nay, mộ của hai cụ không thuộc phạm vi đất đình, mà cách đất đình khoảng 100 mét về hướng Bắc.
Trong thời kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam còn hoạt động bí mật, dù địch kiểm soát gắt gao, nhưng năm 1938, đồng chí Trịnh Quốc Thành (sinh năm 1920, quê quán ở Long An, nay đã mất) là một cán bộ được cấp trên đưa xuống để tìm cách gây dựng cơ sở cách mạng và Chi bộ Đảng đầu tiên ở vùng đất bốn xã cù lao ngày nay, được thành lập dưới gốc cây đa của đình làng Hòa Ninh. Đồng chí Phạm Văn Tung (Năm Tung) được bầu làm Bí thư. Đình còn là địa điểm hoạt động của Thanh niên Tiền phong từ tháng 10 năm 1945.
Đình thần Hòa Ninh có các lệ cúng : - Lễ Hạ Điền ngày 10/3 âm lịch - Lễ Thượng Điền ngày 15 - 16/10 âm lịch - Ba năm đáo lệ Kỳ Yên một lần
Đình Hòa Ninh có một lịch sử hình thành lâu dài. Trải qua những đổi thay của lịch sử và sự mai một của thời gian, đình vẫn còn được gìn giữ cho tới ngày nay.
Ngôi đình ngày nay được trùng kiến trên nền đình cũ ngày xưa. Tuy kiến trúc không còn tuân theo những chuẩn tắc của một ngôi đình làng, nhưng việc trùng kiến và bảo quản đình như hiện nay của Ban Hội Hương là một sự cố gắng rất lớn của nhân dân Hòa Ninh. Bên cạnh đó, đình Hoà Ninh là một trong những di tích nằm trong khu du lịch sinh thái của tỉnh Vĩnh Long, nơi thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Các hoạt động du lịch có thể phối hợp giữa du lịch xanh và tham quan các di tích lịch sử văn hoá của tỉnh, trong đó có đình Hoà Ninh, nơi hội tụ những người chiến sĩ cách mạng, những người yêu nước góp phần vào sự nghiệp thống nhất chung của Tổ quốc.
Đình Hoà Ninh được UBND tỉnh ra quyết định số 3101/QĐ.UBT ngày 17/9/2003, công nhận di tích cấp tỉnh.
Đình Kỳ Hà toạ lạc tại ấp An Thạnh, xã Phú Đức, huyện Long Hồ, được xây dựng vào đầu thế kỷ XIX. Đến năm 1852, đình được vua Tự Đức sắc phong "Thành Hoàng bổn cảnh".
Đình Kỳ Hà nằm giữa huyện lỵ Long Hồ và căn cứ Rừng Dơi. Trước 1927, nhiều nhân sĩ, trí thức về đây hoạt động. Đến khi chi bộ Ngã tư Long Hồ được thành lập, đình là địa điểm họp dân để cán bộ tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản. Khi bị mật thám ruồng bố thì cán bộ, nhân dân từ đình chạy vào Rừng Dơi ẩn náu, bình yên lại trở ra hoạt động cách mạng. Đình Kỳ Hà là một điểm tựa của cách mạng trong hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Năm 1947, nhằm tiêu thổ kháng chiến, ngăn chặn bước chân thực dân Pháp tái chiếm miền Nam, nhân dân Phú Đức đã tháo dỡ ngôi đình, đến năm 1956 mới xây dựng lại như ngày nay.
Đình Kỳ Hà được xây dựng bằng bê-tông, nóc lợp ngói, nền lót gạch tàu, có hai gian : chánh điện và võ quy.
Sau năm 1975, đình Kỳ Hà có đổi tên là Đền thờ Hùng Vương. Hiện nay, trong đình thờ vua Hùng cùng Thành Hoàng bổn cảnh và các anh hùng liệt sĩ.
Đình Kỳ Hà tuy quy mô không rộng lớn, nhưng là nơi thờ tự tôn nghiêm, lại nằm cạnh bờ sông Cái Cau thơ mộng gợi nhớ không khí hội hè, náo nhiệt và không khí uy nghi của một ngôi đình xưa. Hàng năm, đình Kỳ Hà có các lệ cúng theo âm lịch:
Đình Kỳ Hà được công nhận là Di tích lịch sử – văn hoá cấp tỉnh ngày 20 tháng 12 năm 2000.
Di tích tọa lạc tại Khóm 4 – Phường 4 – thành phố Vĩnh Long.
Đình thần Long Hồ được xây dựng vào khoảng nửa đầu thế kỷ XIX. Lúc đầu, ngôi đình xây dựng đơn sơ cây lá. Nhân dân làng Long Hồ trùng tu ngôi đình nhiều lần. Năm 1852, đình Long Hồ được vua Tự Đức sắc phong “Bổn Cảnh thành hoàng”.
Năm 1904, Ban Hội hương và dân làng Long Hồ tiến hành trùng kiến ngôi đình. Sau thời gian dài đình bị xuống cấp, đến năm 1972, đình lại được nhân dân đóng góp trùng tu, tôn tạo.
Ngôi đình hiện tại có qui mô rộng lớn gồm ba gian : võ ca, võ qui và chánh điện; bên hông phải có miếu Tiên Nông, miếu Thổ Thần và nhà trù. Đình cất bằng gỗ căm xe, nền lát gạch tàu, mái lợp ngói âm dương. Đình thần Long Hồ có niên đại lâu đời, sau nhiều lần trùng kiến, trùng tu, đình vẫn giữ được nét kiến trúc đẹp, cổ kính. Bên trong đình bày trí đẹp, trang nghiêm. Nội thất đình bày trí nhiều bao lam, hoành phi, câu đối đẹp, chữ nghĩa thâm thuý. Đặc biệt, trong đình còn lưu giữ đạo sắc Thành Hoàng bổn cảnh và hai sắc phong triều đình phong tặng cho ông Ngô Đức Kế, người làng Long Hồ làm quan dưới triều Nguyễn.
Hàng năm, tại đình Long Hồ có các dịp lễ hội chính :
Ngoài ra, theo thông lệ, ba năm đáo lễ Kỳ Yên một lần. Các ngày lễ hội đông đảo bà con xa gần, các đình xung quanh đến chiêm bái.
Đình Long Hồ được UBND tỉnh công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp tỉnh theo quyết định số 3438/QĐ-UBT ngày 20 tháng 12 năm 2000.
Khoảng năm 1754, sau khi năm họ Mai, Hồ, Mạc, Võ, Đoàn và nhiều lưu dân khác khai phá thành lập thôn Long Thanh thì ngôi đình làng này xây cất tại vàm Bùng Binh, ấp Hưng Long. Ngôi đình đầu tiên chỉ cất tạm bằng cây lá.
Năm 1844, ông Nguyễn Văn Khiêm, một người hảo tâm trong làng thấy vị trí ngôi đình này không thuận lợi nên cúng một sở đất sát bờ sông Long Hồ và đề nghị dời ngôi đình về đây. Ngôi đình thứ nhì cũng chỉ bằng cây gỗ, gạch ngói, mặc dù quy mô có khá hơn ngôi đình trước. Tiếp theo, vào ngày 19 tháng 11 năm Tự Đức thứ năm (mồng tám tháng giêng năm 1853), đình Long Thanh được cấp sắc Bổn cảnh Thành Hoàng chi Thần, mỹ tự Quảng hậu Chánh trực Hựu thiện Đôn ngưng chi Thần, tương tự như các nơi khác.
Đình Long Thanh ở Phường 5 – TPVL
Mãi đến năm 1913, nhờ sự đóng góp to lớn của bà Nguyễn Thị Mai, đình Long Thanh được tái thiết toàn bộ và chính thức đổi hiệu là Long Thanh miếu võ. Nhìn tổng thể, đình Long Thanh có nhiều nóc, giữa là chính tẩm, phía sau là nhà khách. Phía trước là võ quy và võ ca. Phía bên tả là nhà bếp. Chính tẩm làm theo kiểu tứ trụ, có tám kèo đấm và tám kèo quyết. Còn võ ca, võ quy hoặc nhà khách cũng như thế hoặc ba gian hai chái. Nhìn chung, khu vực nào cũng rộng, có thể chứa vài ba trăm người cùng một lúc.
Trước sân đình có đàn thờ Thần Nông, hai miếu thờ thần Bạch Hổ và Ngũ Hành Nương Nương. Trong chính tẩm là nơi đặt khánh thờ thần Thành Hoàng và khánh thờ Tả Hữu Ban liệt vị. Trước khánh thờ thần Thành Hoàng là hương án Hội Đồng thờ Quốc tổ Hùng Vương. Trước khánh thờ Tả Hữu Ban là hương án thờ thần Bạch Mã và thầnThái Giám. Có thể nói, ít đình nào nội điện được trang hoàng với nhiều bao lam, hoành phi, câu đối, long trụ… với nét chạm tinh tế, sơn thiếp rực rỡ như nơi đây. Các hương án, khánh thờ, đồ tự khí cũng như thế. Đặc biệt, trong số các loại vừa kể có bức hoành khắc bốn chữ “Long Thanh miếu võ” rất đẹp, được đem đi triển lãm và được huy chương đồng tại hội chợ các nước thuộc địa năm 1922, tại Marseille (Pháp). Tấm hoành này hiện còn treo ở gian giữa đình Long Thanh.
Hàng năm, tại đình Long Thanh có hai ngày lễ lớn : lễ Hạ Điền ngày 14 và 15 tháng ba âm lịch và lễ Thượng Điền ngày 16 và 17 tháng 10 âm lịch. So hai ngày lễ thì lễ Hạ Điền có quy mô trọng thể hơn lễ Thượng Điền. Trong ngày lễ này, đình Long Thanh thu hút đông đảo bà con ở địa phương và các nơi về tham dự. Đặc biệt, đình Long Thanh hiện còn lưu giữ được những nghi lễ truyền thống như lễ tế Túc Yết, Chánh Tế, tế Tiền Hiền, Hậu Hiền, xây chầu, đại bội, hồi chầu. Bài văn tế đình, gốc của ông Lê Quang Nguyên, nguyên là Tuần Phủ Hà Tiên (thời Tự Đức) đặt, nay vẫn còn sử dụng.
Đình Long Thanh được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định công nhận là Di tích Lịch sử – Văn hóa cấp quốc gia ngày 25 tháng 3 năm 1991 (Quyết định số 457 QĐ ngày 25/3/1991). Địa chỉ đình Long Thanh hiện nay ở Khóm B, Phường 5 – thành phố Vĩnh Long, cách trung tâm thành phố khoảng ba cây số, bên bờ sông Long Hồ.
Đình Tân Hoa thuộc huyện Vĩnh Bình, Phủ Định Viễn, nay ở tại ấp Tân Hưng, xã Tân Hòa, thành phố Vĩnh Long. Đình Tân Hoa nằm bên bờ sông Tiền, ngó mặt ra vàm rạch Cái Đôi nên dân thường gọi là đình Cái Đôi. Ngày nay, ngôi đình này đối diện với cầu Mỹ Thuận, là một vị trí thích hợp cho khách du lịch nhìn ngắm danh lam thắng cảnh.
Theo các bô lão ở địa phương kể lại thì khoảng giữa thế kỷ XVIII có ông Nguyễn Tự Tôn - một quan chức – đã đứng ra chiêu mộ dân nghèo thành lập một thôn nằm cạnh sông Tiền. Do thôn này sinh sau đẻ muộn so với các thôn khác như Vĩnh Tòng, Trường Xuân… nên đầu thế kỷ XIX, khi Trịnh Hoài Đức viết Gia Định thành thông chí đã chú thích hai chữ “thỉ lập” (mới lập) bên cạnh tên làng này. Đình Tân Hoa được xây cất sau khi việc khai phá cơ bản hoàn thành. Ngày nay, chúng ta chưa có tài liệu chứng minh niên đại xây dựng đầu tiên của ngôi đìnhl, nhưng hiện nay, đình Tân Hoa còn lưu nhiều hiện vật như bài văn tế thần Thành Hoàng Đại Vương - dấu ấn tín ngưỡng có từ thế kỷ XVIII… Đặc biệt nhất, đình còn một biển hiệu cổ khắc ba chữ Tân Hoa Đình theo lối triện làm trong năm Mậu Ngọ (1798), kích thước to lớn, chứng tỏ lúc đó, quy mô đình Tân Hoa không nhỏ.
Sau khi ông Nguyễn Tự Tôn mất, con ông là Nguyễn Văn Niệm cùng dân làng tiếp tục khai khẩn đất hoang và đến đời cháu là Nguyễn Bửu, đất đai đã phì nhiêu, làng xóm giàu có no đủ. Ông Nguyễn Văn Bửu đã vận động dân làng trùng tu tôn tạo đình Tân Hoa. Do những công lao đặc biệt ấy, triều đình đã tặng ông Nguyễn Văn Bửu hàm Bá hộ, khi mất được dân làng tôn Hậu hiền. Còn ông của ông là Nguyễn Tự Tôn cũng được tôn Tiền hiền. Cả hai được tòng tự bên cạnh thần Thành Hoàng Bổn Cảnh.
Đình Tân Hoa ở ấp Tân Hưng, xã Tân Hòa, thành phố Vĩnh Long
Vào khoảng đời Thiệu Trị (1841 - 1847), tên làng Tân Hoa do trùng tên húy bà Hoàng Thái hậu Hồ Thị Hoa (vợ vua Minh Mạng, mẹ vua Thiệu Trị) nên bị đổi thành Tân Hóa. Đến ngày 29 tháng 11 năm Tự Đức thứ năm (08/01/1853), làng Tân Hóa cũng như bao làng khác ở trong vùng đều đồng loạt được sắc phong Bổn cảnh Thành Hoàng chi thần. Thế nhưng, văn bản quý giá này không tồn tại lâu dài. Năm 1862 quân viễn chinh Pháp đã nã súng thôn tính các tỉnh miền Đông Nam bộ và tỉnh Vĩnh Long thì sắc thần Tân Hoa đã bị thiêu hủy. Do đó, khi thực hiện Hiệp ước năm 1862, tỉnh Vĩnh Long được trả lại cho triều đình Huế thì chính quyền đương thời đã nhanh chóng báo cáo và Bộ Lễ đã cấp tốc tái cấp cho làng Tân Hoa một bản sao sắc thần này. Bản sao thần sắc là một tờ giấy trắng, loại giấy lệnh, viết nguyên văn đạo sắc thần, dưới có dòng chữ “Lễ Bộ cung lục, Tân Hoa xã tuân chiếu phụng tự”. Bên dưới chỉ đóng dấu “Lễ Bộ chi ấn”, chớ không giống các đạo sắc thần thường thấy. Đây là một việc làm nhằm mục đích tạo điều kiện bảo tồn văn hóa, mang tính chất đặc biệt.
Vào giai đoạn đầu của thời Pháp thuộc, làng Tân Hóa nhập với làng Tân Hội, Tân Nhơn, lấy tên mới là Tân Hòa. Do đó vào năm Canh Tuất (1910), đình Tân Hóa được trùng tu và lấy tên là “Tân Hoà linh miếu”. Hiện nay, quy mô đình Tân Hòa là quy mô của đợt tái thiết này. Tất cả gồm có sáu nóc làm theo kiểu xếp đọi, mang dáng dấp chung đình làng Nam bộ nhưng cũng có những nét riêng. Chánh điện là một ngôi nhà tứ trụ, được nới rộng ra bốn phía bằng kèo đấm và tám kèo quyết. Còn các ngôi nhà khác như võ ca, võ quy, hậu điện… đều làm theo kiểu ba gian hai chái. Nền đình xây bằng đá chẻ, lần trùng tu sau này đã xây tường gạch bao quanh và cũng không giấu được dấu ấn mỹ thuật của thời gian này là các hoa văn Pháp trên đầu cột ngoài hàng hiên phía trước. Mái đình được lợp bằng ngói âm dương, nối liền nhau bằng hệ thống máng xối. Các bờ nóc, bờ mái được xây cao và gắn nhiều hình trang trí bằng sành như liễn long tranh châu, cá hóa long, phượng hàm thư, rồng khoanh, bát tiên, ông Mặt trời và bà Mặt trăng. Đây là những hình gốm sản xuất tại Chợ Lớn vào những năm đầu thế kỷ này và đã làm cho nóc đình Tân Hoa khác với những nóc đình khác. Đáng chú ý nhất là bộ giàn trò bằng gỗ quý, cột đình to, một người ôm không xuể. Lòng căn đình rất rộng, từ ba đến bốn thước. Các bộ phận chịu lực như xuyên, trính, kèo… đều làm theo kiểu lục lăng, võ đậu, đùi ếch… nên cứng cáp. Đặc biệt, các bộ phận vừa kể ở tại võ qui, nơi tập trung đông người thường xuyên được chạm khắc theo những họa tiết mỹ thuật. Thí dụ như bốn cây kèo đùi ếch võ đậu thông thường thì được đục đẽo thành hình những con rồng. Thân kèo là thân rồng. Những lá dung đỡ cây đòn tay cuối tầng mái biến thành những đầu rồng. Có thể nói, đây là nét lạ về kỹ thuật, đẹp về thẩm mỹ mà khả năng chịu lực không hề suy giảm.
Trong đình Tân Hoa còn giữ được hàng chục bộ bao lam, hàng chục hoành phi, câu đối, rất nhiều tự khí như lỗ bộ, lư, đỉnh, hương án, khánh thờ… Đặc biệt, những tác phẩm chạm trổ đều do thợ Tân Nhơn (thợ ở địa phương) thực hiện.
Đình Tân Hoa còn có điểm rất lạ nữa là giữa sân đình không có đàn Thần Nông, mà chỉ có một tấm bình phong đắp hình “long mã phụ đồ” như một ngôi đình Thừa Thiên. Còn Thần Nông lại được thờ trong một ngôi miếu con ở góc bên. Tục lệ này cũng khác lạ với những ngôi đình khác ở Nam Bộ.
Mỗi năm, tại đình Tân Hoa có các ngày lễ :
Đình Tân Hoa là một công trình kiến trúc mang tính nghệ thuật, minh chứng cho một giai đoạn lịch sử khá dài. Trải bao thăng trầm từ khi cha ông chúng ta bắt đầu khai hoang lập ấp, thành lập xóm làng, thế nhưng, mặc dù trong hoàn cảnh nào, cha ông chúng ta vẫn cố gắng bảo tồn di sản văn hóa. Do đó, đình Tân Hoa được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử – văn hóa năm 1998.
"Sắc Bổn cảnh Thành hoàng chi thần… Tuân Nghĩa huyện, Thiện Mỹ thôn… Tự Đức ngũ niên, thập nhất nguyệt, nhị thập cửu nhật (1852)". Theo lời truyền tụng, đình làng Thiện Mỹ được lập trước đó một thời gian. Nghĩa là khi cư dân ở đây tương đối đông đúc, sống quây quần bên nhau thành làng, xóm… đủ điều kiện để triều đình đặt bộ máy quản lý cấp thấp nhất lúc bấy giờ.
Đình làng Thiện Mỹ nằm bên bờ sông Hậu, cách thuỷ lộ quốc gia (đường sông từ Cà Mau đi thành phố Hồ Chí Minh) 400 mét, cạnh quốc lộ 54, thuộc trung tâm thị trấn Trà Ôn. Ngôi đình bề thế hầu như còn nguyên vẹn, tọa lạc trên khu đất rộng. Phía trước và bên hông có lộ lớn, tráng nhựa. Đình Thiện Mỹ là một công trình văn hóa vô giá mà người xưa để lại cho nhân dân Trà Ôn.
Qua nhiều lần tu sửa, đến năm 1935, đình mới được hoàn chỉnh qui mô như ngày hôm nay. Nền cao ngang ngực, được cẩn đá ong, rộng 17,5 mét, dài 65 mét, lát gạch tàu cỡ lớn. Đình gồm 3 gian : võ ca, võ quy và chánh điện; cột căm xe, kèo vỏ đậu, mái lợp ngói âm dương, có ngói ống bắc cầu. Trên nóc mỗi gian có đúc hình lân giữ thành, phượng chầu mặt nguyệt, song long tranh châu – thể hiện tấm lòng hoài vọng cố hương của người xa xứ. Từ lâu, mái đình, cây dương, bến sông đã trở thành góc quê hương của bao người.
Đình làng Thiện Mỹ một mặt khẳng định sự chinh phục thiên nhiên, lập nên làng, xóm ở cuộc đất ven sông này. Mặt khác còn biểu hiện nhiệt tình, bàn tay khéo léo, trình độ nghệ thuật, tính cách văn hóa… qua cấu trúc được xây dựng bên trong của người xưa. Không tính cột xây bằng gạch ngoài hàng hiên, đình có trên 70 cây cột tròn bằng gỗ quí, bề hoành từ 1,2 - 1,4 mét. Kèo cột, đòn tay xuyên, trính… có đến hàng trăm khối gỗ. Nhiều cột có chạm mặt liễn, tứ linh rất công phu.
Bốn con vật trên long trụ được chạm vô cùng khéo léo. Từ dưới lên, trên các hoa văn, linh quy (rùa) có vảy tơ, chân bám chặt vào đất, cổ cất cao ngậm cọng cỏ. Giữa hai chân trước, con rồng (long) giương ra nghểnh cao, cổ hơi uốn cong dài hơn mét, nhe răng nhọn hoắt, râu tua tủa dưới hàm. Mình rồng từ hai chân trước về sau uốn vào phía trong cột, ngược lên để nhô phần đuôi ra trước. Tiếp phía trên là chim phượng, bộ lông mượt mà, thanh thoát, đầu có mỏ nhọn, mắt to, đuôi phượng cong vút về phía sau như mình rồng. Hình tượng con lân nép mình đằng sau cột, bốn chân trong tư thế sẵn sàng lao tới. Có lẽ, các nghệ nhân cố ý để lân giữ mặt hậu. Từ trên cao trở xuống, phượng, rồng, quy đều xoay đầu về một hướng, phần mình lượn về sau, kết hợp với lân ôm tròn thân cột, cao 6 mét vừa vặn. Nét chạm khắc độc đáo, sắc sảo mà chắc chắn, những hoa văn chi tiết tinh xảo. Những móng vuốt, cọng râu, mỏ nhọn, các chi tiết nhỏ nhô cao 3 cm từ thân cột vẫn nguyên vẹn dù trải qua thời gian dài với nhiều biến đổi. Màu sắc được sơn phết hài hòa, tô thêm dáng uy nghi của long trụ, gây ấn tượng mạnh mẽ đối với khách tham quan. Tác phẩm nghệ thuật này có lẽ người xưa đã tốn nhiều công sức và thời gian.
Cùng với long trụ, những câu liễn đối bằng chữ Nho cho thấy sự lịch lãm, thâm thuý, ý vị của những người có công tạo dựng ngôi đình. Từ ngoài vào, cửa bên trái võ ca có câu : Xuất nhập tất tu tiên chỉnh đốn (Tạm dịch : Ra vào đi đứng ngay ngắn)/ Vãng lai mỗi niệm trí khiêm cung (Qua lại khiêm nhường cung kính). Giữa có câu : Tùng bách vĩnh cửu cổ kim lăng (Cây tùng, bách sống lâu, đình cũ xây sửa mới)/ Chi lan thác hoa thạnh tiền đình (Hoa đẹp nở rộ trước sân đình). Cửa bên phải có câu đối gắn với địa danh : Trà Ôn địa chiến giang sơn cổ/ Thiện Mỹ thiên tồn sự nghiệp kim (Đất Trà Ôn, Thiên Mỹ đã có lâu đời, người dân đã an cư lạc nghiệp).
Vào võ quy, phía trước có những câu đối nói về công lao người xây dựng ngôi đình như : Ất Hợi niên, hương cả đại phước vạn cổ tồn hương (Năm Ất Hợi, vị hương cả làm cái việc phúc đức muôn đời còn tiếng tốt)/ Đông nguyệt xuất thủ tường kiệt lực sự thành thiên niên (Tháng mùa đông, ra tay cố gắng hoàn thành để lại ngàn năm). Vào bên trong gian võ quy, trên các vách tường có vẽ tranh các điển tích đẹp, nét vẽ tài hoa thanh thoát, vừa có tính răn dạy cách sống, vừa trang trí tôn nghiêm. Phía trên cao có bảng vàng "Thánh thọ vô cương" và hai câu đối có nội dung nói về buổi lễ khánh thành ngôi đình : Cẩm tú, hoa đăng thụy thái trực liên tam niễu nguyệt (Gấm thêu, đèn hoa màu sắc sặc sỡ suốt ba tháng liền)/ Khanh tương cổ nhạc thanh thanh ứng ngộ cửu vân tiêu (Tiếng chiêng, trống vang lừng tận chín tầng mây).
Chánh điện có hai hoành phi với chữ "Thiên thu khâm ngưỡng" (Ngàn đời cung kính) và "Hà thanh hải yến" (Sông trong biển lặng). Có lẽ hồi ấy, bà con ở đây thường đi sông biển, làm nghề đánh bắt tôm cá nên cầu mong như thế. Câu đối chạm vào cột, nét chữ "thảo" tinh xảo : Hương mãn tận đường ngọc thọ xuân hoa khang tinh mậu (Hương khói tỏa khắp điện thờ, mùa xuân hoa tươi thắm)/ Đăng quang bảo tọa tường vân thái phượng khách hồng nghi (Ánh sáng của đèn rọi trên ngai thần mây lành vây quanh như chim phượng).
Đình làng Thiện Mỹ được gìn giữ và sinh hoạt. Trong các ngày lễ hội, nhân dân tề tựu đông đảo để ôn lại công đức người xưa – một nét văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta.
Đình làng Thiện Mỹ được công nhận di tích lịch sử – văn hóa năm 2005.
Hàng năm, vào ngày mồng ba và mồng bốn tháng Giêng, bà con các nơi về Trà Ôn vui Tết và tham dự lễ giỗ quan Tiền quân Thống chế điều bát Nguyễn Văn Tồn (1763 - 1820).
Ông Nguyễn Văn Tồn là người Khmer, quê làng Nguyệt Lãng, xã Bình Phú, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh. Ông tên thật là Thạch Duồng. Thuở nhỏ, ông theo chúa Nguyễn, hết lòng tận tụy trung thành nên được cho chuyển làm Cai Đội và cho phép chuyển sang mang “Quốc thích”. Từ năm 1786 đến 1789, ông theo chúa Nguyễn chạy sang Vọng Các (Băng-cốc). Khi Nguyễn Ánh khá mạnh, trở về nước, ông được phân công đi chiêu mộ thành lập một đội quân người Khmer và ông lãnh nhiệm vụ thống quản đội quân đó. Ông lại được lệnh theo Võ Tánh giữ thành Bình Định, bị Tây Sơn bắt. Nhưng ông hết dạ trung thành với chúa Nguyễn, tìm cách trốn về Nam.
Năm Gia Long thứ nhất (1802), ông được thăng Cai Cơ, trấn giữ đồn Trà Ôn (thuộc Trấn Giang) kiêm quản phủ Trà Vinh và Măng Thít (thuộc Vĩnh Trấn). Ông có công giúp nhà Nguyễn dẹp loạn ở biên giới Tây Nam. Năm Gia Long thứ bảy (1808) và năm Gia Long thứ mườI (1811), hai lần, ông được triệu về kinh để nhận ban thưởng và được thăng Thống chế, tước Dung Ngọc Hầu. Công đức lớn của ông là giúp dân vùng Trà Ôn, Trà Vinh, Măng Thít khai khẩn đất hoang, thành lập xóm làng. Ngoài ra, năm 1819, ông được Thoại Ngọc Hầu phân công đốc thúc dân phu đào kênh Vĩnh Tế. Do lao tâm, lao lực, ông bị bệnh, mất đầu năm Canh Thìn (1820). Triều đình cử người đến ban cấp, điếu phúng. Ông được truy tặng Tiền quân Thống chế, được tống táng theo nghi lễ. Sau đó, triều đình còn cấp mộ phu quét dọn mồ mả, từ đường. Theo nhiều tài liệu lịch sử, vào mùa hè năm Canh Thìn (1820), nước ta bị một trận dịch lớn chết hàng vạn người. Đầu tiên, trận dịch bắt đầu từ Trấn Tây, lan qua Nam Bộ rồi lan ra tận Thừa Thiên. Trong lúc nguy ngập này, ông được người dân địa phương xem là một vị thần linh bảo hộ. Ông được người dân địa phương xem là một vị Tiền hiền (người Hoa xem ông như ông Bổn ở địa phương), được thờ cúng dưới dạng “Báo hổ tư nguyên”.
Theo Đại Nam liệt truyện, Thống chế Nguyễn Văn Tồn có một người con Yên Vy, làm Vệ úy ở đồn Tịnh Biên (Châu Đốc). Có người tố cáo Vy đã theo Lê Văn Khôi. Nhưng rồI Vy mất, Minh Mạng nghĩ tình cha con nên bỏ qua, không truy cứu. Có lẽ, do nguyên cớ ấy nên hậu duệ của ông bị suy sụp, việc hương hỏa phó mặc cho dân địa phương. Mãi đến đầu thế kỷ XX, dân địa phương nghĩ công đức, trùng tu miếu mộ và thành lập hội “Mỹ Thanh” để lo việc hương hỏa cho vị công thần này. Từ đó đến nay, Lăng Thống chế điều bát được trùng tu tôn tạo vào các năm 1937,1953, 1960, 1994 và gần đây nhất là năm 2005.
Lăng Ông ở giồng Thanh Bạch - ấp Mỹ Hòa - xã Thiện Mỹ – huyện Trà Ôn – tỉnh Vĩnh Long
Hiện nay, Lăng và mộ phần quan Thống chế điều bát cùng phu nhân ở tại giồng Thanh Bạch, ấp Mỹ Hòa, xã Thiện Mỹ, cách thị trấn Trà Ôn khoảng hai cây số. Toàn khu vực này ở trên khu đất trống trải, xung quanh có nhiều cây cao bóng mát và hoa quả tươi đẹp. Khu miếu thờ có ba ngôi : chính điện, võ ca và nhà khách. Tất cả các công trình kiến trúc đều làm bằng gỗ, lợp ngói, nền gạch, vách gạch. Trong Lăng thờ vợ chồng Thống chế điều bát và các danh nhân như Tả quân Lê Văn Duyệt, Bình Tây Tướng quânTrương Định, Bình Tây Phó tướng Nguyễn An (Phó tướng Trương Định, sau khi thất bại ở Gò Công, trở về tiếp tục nổi dậy và hi sinh tại Trà Ôn). Anh hùng Nguyễn Trung Trực, quan Thống chế điều bát Nguyễn Văn Tồn được nhà Nguyễn phong Trung đẳng Thần vào năm 1944.
Phần mộ Thống chế điều bát Nguyễn Văn Tồn và phu nhân làm theo kiểu song hồn, nằm phía sau Lăng. Xung quanh mộ có tường hoa, có bình phong, trụ liễu… trang trí hình lá, giao long và có cặp kỳ lân đứng hầu. Trên rặng liễu có câu đối ngắn, thể hiện được đức độ người đã mất: Hoa di cộng ngưỡng Mân Quảng đồng tri ân. (Người Hoa, người Khmer đồng ngưỡng mộ Người Phúc Kiến, người Quảng Đông đều nhớ ơn).
Hàng năm, tại Lăng Thống chế điều bát Nguyễn Văn Tồn có các ngày lễ : - Giỗ Tiền quân phu nhân : 16 và 17 tháng hai âm lịch. - Giỗ Phó soái Nguyễn An, giỗTiền hiền và Hậu hiền : 20 tháng 12. Nhưng ngày lễ quan trọng nhất là ngày giỗ quan Thống chế điều bát Nguyễn Văn Tồn vào ngày mồng ba và mồng bốn tháng Giêng âm lịch. Trong các ngày này, hàng ngàn người Việt, Hoa, Khmer ở vùng Trà Ôn, Cầu Kè,Trà Vinh, Sóc Trăng… về tham dự. Lễ giỗ quan Thống chế mang ý nghĩa là lễ cầu phước vào những ngày đầu xuân. Ngoài ra, người dân đến lễ bái còn có ý nghĩa uống nước nhớ nguồn. Do đó, tuy là lễ giỗ, nhưng cũng có đầy đủ nghi tiết : Túc yết, Chánh tế, tế Tiền hiền, Hậu hiền, xây chầu, Đại bội và Hát bội. Ngoài ra, vì đây là những ngày đầu xuân nên bà con người Hoa thường tổ chức múa lân, bà con người Khmer trình diễn nhạc ngũ âm hoặc múa hát theo phong cách của họ. Quan Thống chế điều bát Nguyễn Văn Tồn trở thành vị phúc thần của ba dân tộc Việt, Hoa và Khmer tại Trà Ôn.
Bộ Văn hóa Thông tin đã ra quyết định xếp hạng Lăng Ông là di tích lịch sử – văn hóa ngày 13 tháng 2 năm 1996. (Quyết định số 310-QĐ ngày 13/2/1996).
Nhiều sách báo trước đây đã nói đến miếu Công thần Vĩnh Long, nhưng tất cả đều bị bao phủ bởi các huyền thoại. Có người nói, ngôi miếu này xây dựng vào thời Gia Long, thờ 85 vị Trung Hưng Công thần. Rồi có tác giả chọn 85 vị Công thần triều Gia Long thờ ở miếu Hiển Trung (Gia Định) gán ghép vào.
Sự thật, miếu Công thần Vĩnh Long là hậu thân của miếu Hội Đồng tỉnh Vĩnh Long. Theo Đại Nam nhất thống chí, miếu Hội Đồng Vĩnh Long xây dựng năm Minh Mạng thứ 17 (1837) tại thôn Thanh Mỹ Đông, huyện Vĩnh Bình. Dân gian thường gọi ngôi miếu này là Đình Khao do tương truyền các quan cựu trào thường chọn nơi này để yến ẩm, khao thưởng. Miếu Hội Đồng là thiết chế cấp tỉnh thời nhà Nguyễn. Các vị thần được thờ tại miếu Hội Đồng được triều đình nhìn nhận bằng sắc phong. Hàng năm, các quan đầu tỉnh thay mặt triều đình đến tế, theo điển lễ.
Thời cực thịnh của miếu Hội Đồng Vĩnh Long chỉ kéo dài được 30 năm thì thực dân Pháp đã thôn tính và đô hộ. Trong kế hoạch bình định, chúng lấy cớ thiếu gỗ xây dựng dinh Tham Biện nên đã phá hủy ngôi miếu này. Tuy không may mắn như Văn Thánh Miếu, nhưng lúc đó, có người gom được tất cả đồ thờ tự, đặc biệt là 85 đạo sắc phong của miếu Hội Đồng đem về gởi tại đình làng Thiềng Đức.
Khoảng năm 1918, tức là sau Đại chiến Thứ nhất, nhờ sự vận động cùa bà Trương Thị Loan (bà Phủ Y) và bà Lê Thị Danh, chính quyền đô hộ thời bấy giờ đã cho phép khôi phục lại miếu Hội Đồng Vĩnh Long. Ông Nguyễn Văn Kỷ đã hiến một mẫu đất, bà Trương Thị Loan đã hiến 3.000 đồng, số tiền khổng lồ thời bấy giờ, để xây dựng ngôi miếu mới. Miếu mới cách vị trí cũ khoảng một cây số nhưng gần thành phố hơn.
Để chính quyền đô hộ chấp nhận, giới thân hào nhân sĩ thời bấy giờ đã thờ thêm danh sách những thanh niên ở Vĩnh Long bị bắt đi lính tham gia Đại chiến bỏ mạng bên trời Tây. Đồng thời, bà Trương Thị Loan cũng đã gởi của hương hoả thờ cha chồng bà là ông Nguyễn Văn Phong, người Vĩnh Long, nguyên là Tổng đốc Thuận Khánh thời Thành Thái. Do đó, ngôi miếu mới này được gọi là miếu Công thần. Từ đó có nhiều huyền thoại : miếu Công thần là ngôi miếu có từ thời Gia Long, thờ 85 vị công thần triều Gia Long… Chúng ta hiểu những huyền thoại này được tung ra để chính quyền đô hộ yên tâm chấp nhận vì thời bấy giờ, thực dân đề cao thuyết “Pháp – Việt nhất gia”. Do những huyền thoại này mà trong miếu Công thần Vĩnh Long có câu đối đầy khí phách hào hùng :
Sắc phong
Phù Lê Nguyễn bát thập ngũ nguyên huân, tráng khí Tượng Châu thiên dĩ bắc Bình Chiêm Lạp bách thiên dư chiến trận, danh phiêu Lân các hải nhi nam. (Phò Lê Nguyễn, tám mươi lăm vị nguyên huân, khí mạnh Tượng Châu cũng như trời phía bắc Bình Chiêm Lạp hơn ngàn trận, danh nêu ở gác Lân mặc dù chỉ ở vùng biển phía Nam).
Từ khi tái thiết, miếu Hội Đồng Vĩnh Long có tên chính thức là “Công thần Linh miếu”, trở thành nơi thờ phượng dân gian, không còn mang tính chính thống của nhà Nguyễn nữa.
Miếu Công thần Vĩnh Long còn giữ được 85 đạo sắc phong của nhà Nguyễn cấp thời Thiệu Trị và Tự Đức, trong đó có sắc của Thiệu Trị, có sắc của Tự Đức thay lời Thiệu Trị, cũng có sắc của Tự Đức. Thế nhưng, đây là phó bản thay thế bản chính đã mất vào năm 1843. Đặc biệt, có sắc viết đầu năm Thiệu Trị thứ bảy, nhưng ghi ngày tháng cuối năm, lúc ấy Thiệu Trị đã băng hà, Tự Đức đã lên ngôi nhưng vẫn còn sử dụng niên hiệu Thiệu Trị. Có sắc viết và ghi cuối năm Thiệu Trị thứ bảy. Lúc ấy, Thiệu Trị đã băng hà nên tuy vẫn dùng niên hiệu Thiệu Trị mà lời lẽ thì của Tự Đức, thay mặt vua cha mình.
85 đạo sắc ấy phong cho 34 thần hiệu. Có thần hiệu phong cho một vị thần nhưng cũng có thần hiệu phong cho hai hoặc ba vị thần : - 4 đạo sắc gia phong cho 4 Nhiên thần Thượng Đẳng. - 4 đạo sắc gia phong cho 4 Nhiên thần Trung Đẳng. - 5 đạo sắc gia phong cho 5 Nhiên thần Hạ Đẳng. - 5 đạo sắc gia phong cho 5 Nhân thần Thượng Đẳng - 11 đạo sắc gia phong cho 11 Nhân thần Trung Đẳng. - 5 đạo sắc gia phong cho 5 Nhân thần Hạ Đẳng.
Đây là hệ thống thần linh ở địa phương, gồm có những biểu tượng văn hóa, những biểu tượng khí thiêng sông núi. Nếu là nhân thần thì cũng là những danh nhân sinh tiền có công với dân tộc, có công với địa phương. Nếu danh nhân xa xưa nhất thì phải kể đến Phi Vận Tướng quân Nguyễn Phục, gốc là thầy dạy học và cũng là một công thần triều vua Lê Thánh Tông. Ông được xem là một vị thần phù hộ người đi biển đã đưa đám lưu dân vào Nam lập nghiệp. Ông được phong Trung Đẳng thần. Kế đến là Đô đốc Bùi Tá Hán (Nghệ An) - người khai phá vùng đất Thừa Thiên, đời Lê Anh Tông. Tham tướng Lê Văn Chính, người khai phá vùng Phú Yên, đời chúa Nguyễn Hoàng… đều được phong Thượng Đẳng thần. Những danh nhân có công lớn với Nam bộ như Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh, Chính thống Nguyễn Cửu Vân, Phụ quốc Đô đốc Trần Thắng Tài… cũng được phong Thượng Đẳng thần. Các danh nhân có công với vùng đất Vĩnh Long như Điều khiển Nguyễn Cư Trinh, Chưởng cơ Nguyễn Khoa Kiên, Hữu phủ Tống Phước Hiệp, Thống suất Trương Phước Du cũng được phong Trung Đẳng hay Hạ Đẳng thần. Còn các biểu tượng văn hóa (Nhiên thần) cũng được chia ba bậc : Thượng, Trung và Hạ. Các biểu tượng này đủ màu sắc : Việt, Hoa, Chăm. Nhìn chung, dù Nhân thần hay Nhiên thần cao thấp khác nhau là do công trạng lúc sinh tiền hay mức độ ảnh hưởng trong dân gian.
Miếu Công thần Vĩnh Long hiện nay ở tại phường 5 – thành phố Vĩnh Long, bên bờ sông Cổ Chiên. Ngôi miếu gồm có bốn nóc : chính tấm, võ qui, võ ca và nhà khách. Tuy nhiên, võ qui, võ ca và chính tấm đều làm theo kiểu “tứ trụ”. Bộ giàn trò bằng danh mộc, kiên cố nhưng đơn giản. Ngôi miếu có tường gạch bao quanh, nền lót gạch, mái lợp ngói âm dương . Bên trong miếu Công thần có rất nhiều hoành phi, câu đối từ các địa phương tiến cúng, có các nhân vật ở miền Trung, miền Bắc. Riêng về cách bày trí thờ phượng không khác một ngôi đình làng.
Mỗi năm tại miếu Công Thần Vĩnh Long có các ngày lễ : 1. Lễ Thượng Nguyên và lễ Bầu Ông (rằm và 16 tháng giêng). 2. Lễ Hạ Điền (rằm và 16 tháng năm). 3. Lễ Trung Nguyên (rằm và 16 tháng bảy) 4. Lễ Thu tế và Trung Thu (rằm và 16 tháng tám) 5. Lễ Thượng Điền và Hạ Nguyên (rằm và 16 tháng mườI) 6. Lễ Chạp miếu (rằm và 16 tháng chạp) phải 7. Lễ Tất niên và Dựng nêu (25 tháng chạp).
Nhìn chung, nguồn gốc nghi lễ tại miếu Công thần rất phức tạp. Lễ Hạ Điền và lễ Thượng Điền là nghi lễ của một đình làng. Ngày ấy, dân làng tế Thần Nông, vũ sư, phong bá và các vị thần linh khác để cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bộI thu. Còn lễ Bầu Ông là nghi lễ thời khai hoang phá rừng còn lưu truyền. Theo lời người xưa kể lại, thời đó, con người không ai dám làm chức Trùm Cả, tức là chức vụ đứng đầu làng, chức vụ này phải dành cho cọp. Nếu ai bạo gan, trái điều kiêng kỵ thì cọp sẽ về móc họng giết chết. Do vậy hàng năm, Hương chức phải làm lễ tế “ông Trùm Cả” và dâng cho “Ông” một tờ cử hương chức. Tối hôm đó, ông sẽ về nhận lễ vật và trả tờ cử nhiệm kỳ qua. Tục lệ này có vẻ dị đoan,, nhưng mục đích nhằm trấn an dân làng bám trụ phá rừng. Đặc biệt, trong một năm chỉ có lễ Xuân tế là ngày lễ quan trọng nhất tại miếu Công thần. Ngày lễ này kéo dài 4 ngày : 14, rằm, 16, 17 tháng hai, có hàng ngàn bà con trong thành phố và các nơi khác về dự. Lễ Xuân tế là dịp bà con đến lễ bái các vị thần linh cầu quốc thái dân an, là dịp bà con lễ bái các vị tiền nhân với ý niệm uống nước nhớ nguồn. Đây cũng là dịp cầu an làng xóm nên ngoài các nghi lễ truyền thống còn có các nghi lễ dân gian mang màu sắc Phật giáo, Lão giáo. Lễ Xuân tế là dịp bà con họp mặt vui chơi đàm đạo, xem hát bội.
Có thể nói, miếu Công Thần Vĩnh Long là một “tượng đài” kỷ niệm 300 năm văn hóa vùng đất này. Do đó, ngày 31 tháng 8 năm 1998, Bộ Văn hóa Thông tin đã ra Quyết định số 1811-QĐ công nhận miếu Công thần là di tích văn hóa cấp quốc gia.
Di tích tọa lạc tại ấp Mỹ Phú I, xã Mỹ Thạnh Trung, huyện Tam Bình. Từ UBND xã Mỹ Thạnh Trung, theo tỉnh lộ 33 đi về cua Ông Đốc 900 mét, rẽ trái 300 mét, gặp di tích Miếu quan tiền hiền nằm cạnh bờ sông Mỹ Thạnh.
Tương truyền, quan tiền hiền người Quảng Đức, họ Phan húy Công An. Chánh thất họ Đặng, tự là Đạt, húy là Thông.
Nguyên thời Nguyễn Vương còn bôn tẩu, ông Phan Công An luôn kề cận. Khi Nguyễn Vương chiếm thành Gia Định, ông được nhận bằng Khâm sai Tiền chi cai cơ, nhưng sau đó, ông tìm cách cáo lão từ quan. Ông đệ đơn xin khai khẩn đất hoang lập ấp. Ông chiêu mộ nông dân phá rừng lập thôn xóm, ruộng đồng. Việc khai khẩn mở rộng từ Ba Xuyên, Giang Đạo đến Long Hồ Dinh. Khi một xứ đã thành khoảnh thì ông chọn người đủ tài trí giao cho cai quản, ông lại tiếp tục đến nơi khác để mở mang.
Việc làm của ông tạo ra nhiều của cải cho đất nước, dân cư yên ổn, sức mạnh quy tụ lại không giữ riêng cho mình.
Về sau, ông lập thôn Mỹ Thạnh Trung. Ông ra sức chiêu mộ lương dân cùng nhau làm ruộng. Ban đầu, làng Mỹ Thạnh Trung thuộc đất hoang, rừng bụi, sói, hổ, rắn, rít… Ông Phan Công An cùng dân làng ra sức đốn phá cây rừng, lập thành ruộng đồng trù phú. Sau đó, ông giao lại cho người làng làm chủ vĩnh viễn. Người các nơi tụ về rất đông, thôn xóm trù mật.
Thượng nguyên ngày rằm tháng Giêng, ông mất. Tuy chưa rõ năm sinh năm mất, nhưng chắc chắn không dưới thượng thọ. Sinh tiền, gia nghiệp của ông đơn bạc nhưng lòng quân bình đoan chính, hết lòng vì mọi người nên dân làng xa gần đều kính mộ.
Phu nhân ông, bà Đặng Nghi Nhân, tánh nghiêm trang, thùy mị, lòng nhân ái rộng lớn. Bà thường chăm lo cho dân làng nếp ăn, nếp ở nên dân làng hết sức trọng vọng, chính quyền đương thời cũng hết sức nể trọng. Khi trong làng có việc đều nhờ đến bà giải quyết, ai cũng tuân phục. Mùa lúa mới hàng năm, dân các ấp đều dâng tặng gạo mới.
Hạ nguyên ngày rằm tháng Mười, bà qua đời, niên thọ của bà tương đương với quan tiền hiền.
Vì hai ông bà không con, không bà con thân thích xa gần nên dân chúng lập miếu thờ truy tôn là tiền hiền.
Trước kia, miếu quan tiền hiền Phan Công An là một công trình kiến trúc quy mô rộng lớn. Kiến trúc bao gồm võ ca, võ qui, chánh điện nền miếu cao ráo, cột căm xe, lợp ngói âm dương, bày trí mỹ thuật.
Sau năm 1945, thanh niên Tiền phong của xã, bộ đội địa phương, chủ lực miền thường đến miếu họp hội, đóng quân, truy điệu tử sĩ. Vì vậy, năm 1947, Pháp cho máy bay ném bom triệt hạ ngôi miếu. Dân làng tái lập ngôi miếu trên nền xưa, nhưng nhỏ bé, đơn sơ. Hiện nay, miếu là ngôi nhà nhỏ lợp tol, nền lát gạch tàu, vách tường bê-tông. Bên trong có khánh thờ linh vị ông bà tiền hiền, hai bên thờ Tả ban liệt vi, Hữu ban liệt vị.
Mộ phần của ông bà tiền hiền nằm bên cạnh sông Bằng Tăng. Hai ngôi mộ đá lớn được dân chúng thường xuyên chăm sóc, hương khói.
Hàng năm, tại miếu có hai lễ giỗ : giỗ ông vào tháng Giêng, giỗ bà vào tháng Mười. Các thôn ấp đều có người đến tế lễ, trần thiết lễ nhạc, nhang khói bái kiến, thành kính một lòng như đối với ông bà tổ tiên. Trước kia, mỗi lễ cúng kéo dài ba ngày và đều cúng bằng đại lễ. Nay, lễ tiết có phần giản tiện hơn nhưng lòng tôn kính của dân làng vẫn nguyên vẹn như xưa.
Di tích miếu quan tiền hiền Phan Công An là nơi lưu dấu một thuở tiền nhân đổ bao mồ hôi, công sức, máu xương khai phá vùng đất mới phương Nam nói chung và vùng Vĩnh Long, Tam Bình nói riêng. Việc lập miếu thờ ông bà Phan Công An là biểu hiện đạo nghĩa “Uống nước nhớ nguồn”, truyền thống tốt đẹp này đang được giữ gìn phát huy.
Ngày 20/12/2000, miếu quan tiền hiền Phan Công An được công nhận là di tích lịch sử – văn hoá cấp tỉnh (Quyết định số 3442/QĐ-UBT).
Lịch sử ghi lại sự kiện năm Kỷ Mùi (1679), một đoàn người gồm khoảng 3.000 dân – binh Trung Hoa đi trên 80 chiến thuyền, vượt biển đến Đà Nẵng đệ đơn xin chúa Nguyễn cho phép tỵ nạn chính trị. Chúa Nguyễn chấp nhận thỉnh cầu và cử người hộ tống đoàn trực chỉ về phương Nam.
Nhóm người này thực chất là những người Trung Hoa trung thành với triều đại nhà Minh. Khi nhà Minh suy tàn, bị nhà Mãn Thanh từ phía Bắc tràn xuống tiêu diệt, họ không thần phục nhà Mãn Thanh nên tìm nơi lánh nạn. Do lo ngại thế lực nhà Thanh nên đoàn người tìm cách chạy càng xa đất nước Trung Hoa càng tốt. Họ không dám dừng lại xứ Đàng ngoài của chúa Trịnh vì sợ bị “dẫn độ” về nước. Ở Đàng trong, chúa Nguyễn thuận cho nhóm người chạy nạn nhập cư, nhưng để đề phòng trở ngại về ngoại giao với nhà Thanh, đồng thời có thêm nhân lực chinh phục vùng đất đồng bằng Nam bộ nên chúa Nguyễn đưa họ về phương Nam.
Chúa Nguyễn cắt đặt cho nhóm của Tổng binh Cao – Lôi - Liêm là Trần Thượng Xuyên (tức Trần Thắng Tài) định cư ở Biên Hòa, nhóm của Tổng binh Long Môn Trương Ngạn Địch định cư ở Mỹ Tho. Một nhóm khác tìm nơi sinh cơ lập nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long. Chúa Nguyễn đặt tên làng của người Hoa nhập cư là “làng Minh Hương”. Làng Minh Hương lúc đó mang ý nghĩa là “hương hỏa cho triều đại nhà Minh” (đến đời Minh Mạng, Minh Hương chuyển sang ý nghĩa là “quê hương của người Minh” cho phù hợp quan hệ bang giao với nhà Thanh).
Bằng tài năng, kinh nghiệm thương mại của cộng đồng Minh Hương, việc buôn bán, kinh doanh ở Nam bộ phát triển nhanh chóng. Nông Nại đại phố (Biên Hòa) và Mỹ Tho đại phố lần lượt ra đời. Để quản lý hoạt động thương mại của người Minh Hương, chúa Nguyễn cho phép Dương Ngạn Địch được quyền thâu thuế khóa. Chín trạm thu thuế ra đời, đặt rải rác từ Biên Hòa xuống Vĩnh Thanh trấn.
Năm Thái Đức thứ 6 (1784) của triều đại Tây Sơn, cộng đồng Minh Hương ở Vĩnh Long trấn có 53 nhân khẩu, do Trần Tấn Lộc và Trần Thành Công lãnh đạo, việc thuế khóa do thành Gia Định trực tiếp quán xuyến.
Năm Gia Long thứ tư (1805), phân xã Minh Hương ở Vĩnh Thanh trấn chính thức ra đời. Ông Liêu Tấn Phụng được cử làm Hương trưởng. Việc thuế khóa vẫn còn lệ thuộc thành Gia Định.
Năm 1811, ông Liêu Tấn Ngoạn cùng ông Trần Công Thái đệ đơn xin tách phân xã Minh Hương Vĩnh Thanh ra khỏi thành Gia Định và nhập vào trấn Vĩnh Thanh.
Làng Minh Hương tồn tại dướI hình thức đặc biệt, tương tự như “lãnh sự quán”, không có địa giới hành chánh riêng biệt, người Minh Hương ở xen kẽ với dân cư của làng Việt. Trong giao dịch hành chánh, làng Minh Hương quan hệ trực tiếp với trấn, dinh, không qua tổng, phủ. Ngược lại, trấn, dinh - sau này là tỉnh - quản lý trực tiếp làng Minh Hương. Người Minh Hương có đầy đủ quyền sản xuất, kinh doanh, tạo sắm điền sản hệt người Việt và có nghĩa vụ nộp thuế đầy đủ cho Nhà nước. Đối với cộng đồng Minh Hương, họ còn có nghĩa vụ đóng góp theo qui chế riêng của cộng đồng.
Khi trở thành đơn vị hành chánh trực thuộc trấn Vĩnh Thanh, ông Lâm Hạc Thanh đứng ra vận động xây dựng Minh Hương hội quán. Hội quán là nơi sinh hoạt cộng đồng mang đậm truyền thống của thương nhân Trung Hoa. Hội quán đồng thời là cơ sở tín ngưỡng. Như ở Gia Định có Minh Hương gia thạnh, Biên Hòa có miếu Quan đế, Hà Tiên có miếu Quan Công, Định Tường có miếu Quan đế… Lúc đầu, Minh Hương hội quán ở Vĩnh Thanh thờ Phước Đức chánh thần. Năm 1834, do ảnh hưởng của tín ngưỡng Thiên Hậu thánh mẫu nên Hội quán Minh Hương đổi cách thờ tự. Thiên Hậu thánh mẫu được đưa vào thờ chính, phối tự cùng Phước Đức chánh thần và Chúa sanh nương nương.
Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), xã trưởng Minh Hương Vĩnh Long Trương Ngọc Bạch (anh ruột bá hộ Trương Ngọc Lang) xây dựng võ ca Minh Hương hội quán.
Năm Tự Đức thứ 8 (1855), bá hộ Trương Ngọc Lang trùng tu chính điện Minh Hương hội quán. Năm 1858, trong chuyến về thăm cố hương Trung Hoa, ông Trương Ngọc Lang thỉnh về ba bộ tượng, tôn trí tại Hội quán.
Khi thực dân Pháp xâm chiếm lục tỉnh Nam Kỳ, chúng áp đặt bộ máy cai trị ngoại bang lên xứ sở này. Xã hội Nam kỳ vì thế có nhiều biến đổi sâu sắc. Cộng đồng Minh Hương cũng không nằm ngoài vòng ảnh hưởng ấy. Trong đó, về mặt hành chánh, các làng Minh Hương bị xóa sổ, cư dân ở đâu phải nhập hộ khẩu vào địa phương đó. Các hội quán Minh Hương vì vậy chỉ còn lại chức năng tín ngưỡng thuần túy.
Trong quá trình hình thành và phát triển cộng đồng, người Minh Hương ở Vĩnh Long tuy lực lượng không đông, tiềm lực kinh tế không mạnh bằng cộng đồng Minh hương cư trú ở Gia Định, Biên Hòa, Mỹ Tho, nhưng họ đã từng có hoạt động kinh doanh phát đạt, những thành tựu văn hóa có ý nghĩa lịch sử.
Hiện nay, di tích Minh Hương hội quán rộng lớn vẫn tồn tại trên nền xưa ở phường 5, thành phố Vĩnh Long. Trong di tích lưu giữ nhiều hiện vật quí. Bên cạnh những hiện vật tín ngưỡng lưu truyền nhiều đời còn có hơn 3.000 trang tư liệu Hán - Nôm, Việt ngữ, Pháp ngữ. Khối tư liệu này – đa phần là Hán - Nôm - ghi nhận mọi mặt đời sống, từ giao dịch hành chánh với trấn Vĩnh Thanh, giao dịch thương mại, mua bán đất đai, tập tục thờ cúng… đến giá cả các loại hàng hóa thông thường, họp hành, bầu bán… Do tính cẩn thận, người xưa ghi chép tỉ mỉ mọi việc, đều đặn, liên tục từ lúc hình thành cộng đồng Minh Hương cho mãi đến những năm gần đây. Vì vậy, đây là khối tài liệu có giá trị về nhiều mặt rất cần được tiếp tục giữ gìn và khai thác.
Cũng ở trong di tích còn tìm thấy nhiều hiện vật liên quan tới các nhân vật lịch sử gốc Minh Hương. Như bảng vàng của vua Thiệu Trị tặng cho bà Liên Thị Tánh danh hiệu “Trinh tiết khả phong”; bảng vàng “Lạc quyên nghĩa môn” vua Khải Định ban cho gia đình ông Trương Ngọc Lang do có nhiều đóng góp về văn hóa xã hội như cải táng mộ cụ Võ Trường Toản từ Gia Định về Bến Tre, góp phần xây dựng Văn Thánh miếu, Công Thần miếu, chùa Long Phước…
Minh Hương hội quán là một nét chấm phá trong bức tranh giao lưu văn hóa giữa hai cộng đồng Kinh – Hoa trên địa bàn Vĩnh Long.
Nhà thơ Nhiêu Tâm tên thật là Đỗ Như Tâm, hiệu Như Tâm, Minh Tâm, biệt hiệu là Minh Giám. Vì ông có chân trong "Nhiêu học" (người được hưởng học bổng trong nhà nước phong kiến) nên người ta thường gọi ông là Nhiêu Tâm. Ông sinh năm 1840, sống ở làng Sơn Đông (nay thuộc xã Thanh Đức, huyện Long Hồ) và mất năm 1911.
Về nguyên quán của nhà thơ Nhiêu Tâm, có hai ý kiến khác nhau. Ý kiến thứ nhất cho rằng, ông là người Nam Bộ cố cựu, từ nơi khác lưu lạc đến Vĩnh Long. Ý kiến thứ hai, ông là người miền Trung mới đến xứ nầy.
Ở làng Sơn Đông, nhà thơ Nhiêu Tâm dạy chữ Nho và làm nghề bốc thuốc. Cụ ăn ở tại nhà học trò là ông Trần Văn Kỷ. Ông Kỷ mất, cụ Nhiêu Tâm sang ở nhờ nhà người học trò khác là ông Trần Minh Chuẩn, tiếp tục dạy học, hốt thuốc cho đến khi qua đời.
Theo trí nhớ của dân làng Sơn Đông, nhà thơ Nhiêu Tâm vóc người gầy và cao, đôi mắt bị lòa nên đi lại rất khó khăn, phải chống gậy.
Trong bài thơ "Tự thuật", nhà thơ Nhiêu Tâm nói về mình như sau : Thất thập niên huê cửu ngũ linh Thần hôn nhi diệt viễn môn đình Phong sương đa bệnh châu nhan đạm Tuế nguyệt tằng thôi bạch phát sinh. Giáo dục vấn minh chung sắc diện Gian nguy thì thị biện tài danh Cầu nhơn tự cổ nhơn nan đắc Tạo vật hề tu hựu lão thành.
Dịch nghĩa : Trên bảy mươi tuổi đầu, gần cuối đời mà còn phải xa nhà, cuộc đời phong sương làm ông mang nhiều bệnh. Năm tháng chất chồng đầu thêm bạc, dạy trẻ muôn đời thêm sáng tỏ, gặp lúc gian nguy mới tỏ rõ anh tài. Cho đến cuối đời, nhà thơ Nhiêu Tâm vẫn giữ tiết tháo của một nhà Nho, một nhà thơ sống đời tao nhã, thanh bạch. Dù sống trong cảnh nước mất, làm dân nô lệ dưới chế độ cai trị hà khắc của thực dân Pháp, nhà thơ Nhiêu Tâm không hề bị cám dỗ bởi vật chất, bị lung lạc giữa chốn quan trường.
Về văn chương, nhà thơ Nhiêu Tâm là nhà thơ trữ tình trào phúng nổi tiếng vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Nam Bộ. Văn phong nhà thơ Nhiêu Tâm mang bản sắc dân tộc, thời đại và góp vào thi ca châm biếm miền Nam một tiếng cười bằng ngôn ngữ giản dị và mang chút xót xa của sĩ phu bất đắc chí. Mảng thơ trào lộng của nhà thơ Nhiêu Tâm đã gây ra nhiều tranh luận và giai thoại thú vị, được nhiều người truyền tụng.
Nhà thơ Nhiêu Tâm là tác giả của nhiều bài thơ, đoản văn, câu đối nổi tiếng như bài “Vịnh Kiều”, bài phú “Bần phú luận” (204 câu), “Vợ tiễn chồng”, “Cảm tác”, "Thuyền qua sông”, “Vịnh miếu Tống Quốc Công”, "Khóc bạn”, "Vợ Chệt khóc chồng chết đuối”, “Trẻ cha, già con”… Sau này, nhà xuất bản Tân Việt - Sài Gòn có tập hợp một số bài thơ của ông in thành tập thơ (chung với nhà thơ Học Lạc).
Bằng chất trữ tình, kết hợp cái bi, cái hài, ứng đối nhanh nhưng lại không kém phần thâm thúy, ngòi bút ông còn phê phán tiêu cực xã hội hết sức mạnh mẽ. Như bài "Trẻ cha, già con" phê phán ông Lê Chí Thành, tục danh Huyện Thiềng : Của đời thấy vậy dửng dừng dưng Cha trẻ, con già ngộ quá chừng Nọ nọ ông già khờ khịt mặt Này này chàng rể rụng trơn răng. Tham vui chịu lập thương vì lão Khéo gả làm chi lạ cái thằng Chuyện ở giữa đường ai chẳng thấy Nói chơi đéo hỏa đứa cằn nhằn…
Sống đời lao khổ cùng quần chúng, nhà thơ Nhiêu Tâm cảm thông sâu sắc nỗi cơ cực của người dân trong xã hội thực dân thống trị. Ông chia sẻ nỗi khổ cực với người dân : Chó chực mâm cơm rơi nước mắt Chuột nhìn hũ gạo rụng lông nheo…
Di văn vật sự của cụ Nhiêu Tâm rất phong phú. Cùng với những nhà Nho, nhà thơ ưu thời mẫn thế khác ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhà thơ Nhiêu Tâm là nhà thơ tài hoa. Ngoài tài thơ, ông sống gảin dị và thanh bạch, quý trọng tình nghĩa, yêu thương đồng bào, tấm lòng ông khảng khái thanh cao. Tấm lòng và tài năng của nhà thơ Nhiêu Tâm góp vào lĩnh vực văn chương của Nam Bộ, của cả nước những tác phẩm văn thơ mang đậm dấu ấn con người, thời đại mang nhiều biến cố của lịch sử – văn hóa nước nhà.
Khi nhà thơ Nhiêu Tâm mất, không thấy có vợ con, quyến thuộc đến viếng, chỉ có học trò chịu tang. Bạn bè, người làng Sơn Đông đứng ra làm tang lễ và mai táng ông. Ngôi mộ của ông bằng đất, nằm giữa ruộng lúa thuộc ấp Sơn Đông, xã Thanh Đức, huyện Long Hồ.
Ngày 20 tháng 12 năm 2000, UBND tỉnh Vĩnh Long ra quyết định công nhận ngôi mộ nhà thơ Nhiêu Tâm là di tích lịch sử – văn hoá cấp tỉnh. Đến năm 2002, nhà nước đầu tư kinh phí trùng tu ngôi mộ và làm đường dẫn đến ngôi mộ để khách thập phương đến viếng thuận tiện hơn và cũng để tỏ lòng tôn kính đối với một nhà thơ "là một kiện tướng trong thi giới nước nhà nói chung và là một nhà thơ trào phúng xuất sắc của thi giới miền Nam nói riêng".
Nghĩa Trủng miếu còn gọi là miếu Âm Nhơn, tọa lạc tại tổ 9, ấp Phước Hanh B, xã Phước Hậu, huyện Long Hồ. Di tích gồm có 02 phần : ngôi miếu và nghĩa trang là nơi thờ tự và yên nghỉ của nghĩa sĩ vì nước quên thân.
Ngày 20 tháng 5 năm 1862, thực dân Pháp tấn công Vĩnh Long. Quan quân thành Vĩnh Long chiến đấu anh dũng nhưng không ngăn được sự tấn công của quân Pháp nên đốt các kho tàng dinh thự trong thành và rút đi. Các tử sĩ được đưa về làng Phước Hanh mai táng.
Đến năm 1867, thành Vĩnh Long mất vào tay Pháp, nhiều binh lính không chịu qui hàng nên lui ra vùng ngoại thành kháng chiến. Nghĩa quân chia ra nhiều nhóm nhỏ quần nhau với giặc. Nhưng vì vũ khí thô sơ không chống lại vũ khí tối tân nên nhiều nghĩa quân anh dũng ngã xuống. Nhân dân các nơi chuyển tử sĩ về làng Phước Hanh mai táng.
Nghĩa trang mở rộng khoảng 7.000 mét vuông. Tử sĩ mai táng ở đây lên đến 2.000 người. Nhân dân dựng nên ngôi miếu thờ các vị anh hùng vì nước quên thân. Ngôi miếu ban đầu đơn sơ bằng tre lá. Năm 1945, dân làng Ngươn Hanh góp công sức dựng lại ngôi miếu có phần kiên cố hơn. Năm 1972, ông Đỗ Phước Trinh cúng số tiền đại tu ngôi miếu.
Ngôi miếu xây hình vuông, mỗi cạnh 9 mét, nền đá xanh cao 0,85 mét, tường xây ô dước, nền lát gạch tàu, nóc lợp ngói âm dương.
Nghĩa trang nằm cách miếu 100 mét, diện tích nghĩa trang trước kia là 7.000 mét vuông, nay thu hẹp còn 4.000 mét vuông. Trước đây, bốn góc nghĩa trang có bốn trụ gạch, cao 1,2 mét, rộng 0,8mét, nay chỉ còn hai trụ. Cạnh nghĩa trang hiện còn dấu vết tấm bình phong, xây bằng gạch. Bên cạnh nghĩa trang hiện còn hai cây dương cổ thụ. Lâu nay, dân quanh vùng vẫn luôn cố gắng giữ gìn khu nghĩa trang này, vì nơi đây là chỗ yên nghỉ của hơn 2.000 anh hùng tử sĩ vì nước hy sinh.
Với tinh thần uống nước nhớ nguồn, lâu nay, người dân nơi đây truyền đời thay nhau chăm sóc nghĩa trang, hương khói ngôi miếu. Hàng năm có các lệ cúng : rằm tháng giêng, rằm tháng bảy, rằm tháng mười cùng các lệ cúng : 20 – 21 tháng ba, 16 – 17 tháng tư, mùng năm tháng năm âm lịch.
Ngày 20 tháng 12 năm 2000, UBND tỉnh ra quyết định số 3439/QĐ.UBT công nhận Nghĩa Trủng miếu là di tích lịch sử – văn hóa.
Đầu năm 1928, ông Trương Như Thị cùng các chức sắc đạo Cao Đài tạo lập nhà tịnh Kim Linh. Nhà tịnh Kim Linh được lập tại nhà ông Trương Như Thị, thuộc xã Tân Long Hội, huyện Cái Nhum (nay thuộc huyện Mang Thít). Họ đạo ở đây theo hệ phái Tiên Thiên. Năm 1936, ông Trương Hoàng Ngự – một chúc sắc Cao Đài – hiến 7 công đất để xây dựng thánh tịnh mới – thánh tịnh Ngọc Sơn Quang.
Ngay từ năm 1931, bên cạnh các việc hành đạo, các chức sắc và các tín đồ Ngọc Sơn Quang có những hoạt động cách mạng bí mật. Năm 1936, thực dân Pháp niêm phong Thánh tịnh Ngọc Sơn Quang. Sau Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940, nhiều chức sắc, tín đồ bị bắt bớ, lưu đày. Dù khó khăn như vậy, nhưng Ngọc Sơn Quang vẫn hướng về cách mạng. Năm 1943, Đảng phân công đồng chí Trần Văn Sen phá bỏ niêm phong Thánh tịnh Ngọc Sơn Quang và các hoạt động ở thánh tịnh Ngọc Sơn Quang lại diễn ra mạnh mẽ, các đoàn thể nơi đây hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng. Tháng 8/1945, các đoàn thể ở Ngọc Sơn Quang cùng nhân dân vùng lên giành chính quyền về tay nhân dân.
Trong kháng chiến chống Pháp, Thánh tịnh Ngọc Sơn Quang là điểm tựa vững chắc của Cách mạng. Nhiều đơn vị bộ đội, cán bộ lãnh đạo của Vũng Liêm, Mang Thít bám trụ nơi đây chỉ đạo phong trào của địa phương. Năm 1954, Chi bộ Đảng của Thánh Tịnh Ngọc Sơn Quang ra đời, chỉ đạo các hoạt động cách mạng của Thánh tịnh.
Thánh tịnh Ngọc Sơn Quang
Giai đoạn chống Mỹ cứu nước, nhiều hoạt động cách mạng diễn ra có lúc âm thầm bí mật, có lúc công khai trực diện với kẻ thù, giành thắng lợi lớn trên nhiều mặt. Nổi bật là sự kiện Thánh tịnh Ngọc Sơn dựng đài Ngưỡng Thiên tổ chức lễ cầu nguyện Hòa Bình. Sự kiện này diễn ra từ ngày 12 đến ngày 16 tháng năm 1970. Đại lễ quy tụ 18 Hội Thánh ở miền Tây về tham dự. Lễ hội đã biến thành diễn đàn chống xâm lược Mỹ, khẳng định Việt Nam nhất định hòa bình độc lập.
Sự kiện này gây tiếng vang trong nước và quốc tế. Nhiều hãng thông tấn nước ngoài đã đến Ngọc Sơn Quang trực tiếp đưa tin ra toàn thế giới. Kẻ thù tìm mọi cách triệt phá buổI lễ, đàn áp tôn giáo. Đài Ngưỡng Thiên vẫn đứng vững trong sự đoàn kết bảo vệ của tín đồ, của quần chúng nhân dân. Sự kiện này làm cho kẻ thù run sợ.
Sự kiện thứ hai cũng tạo ra tiếng vang lớn diễn ra tháng 7 năm 1973. Tín đồ, chức sắc Ngọc Sơn Quang trực tiếp lên gặp Quận trưởng Minh Đức, Tỉnh trưởng Vĩnh Long, Chỉ huy Vùng IV chiến thuật, Bộ Nội vụ, Phủ Thủ tướng, Tối cao Pháp viện, Bộ Chỉ huy Cảnh sát quốc gia của ngụy… đấu tranh quyết liệt chống bắt lính. Thánh tịnh tổ chức truy điệu trọng thể ba tín đồ bị địch bắt giam, bị thủ tiêu vì chống quân dịch. Trước làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của Ngọc Sơn Quang, địch phải nhượng bộ, thả 181 tín đồ bị giam giữ, cam kết chấm dứt các hoạt động bố ráp, lùng sục Thánh tịnh. Hàng năm, đến ngày 14/11, Ngọc Sơn Quang tổ chức trọng thể kỷ niệm lễ cầu nguyện Hoà Bình.
Thánh tịnh Ngọc Sơn Quang được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định công nhận là di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia (Quyết định số 1811 QĐ/BT ngày 31/8/1998).
Thất Phủ miếu là bảy phủ: Ninh Ba, Phước Châu, Chương Châu, Truyền Châu, Quảng Châu, Triều Châu và Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) của các tỉnh Trực Lệ, Phước Kiến và Quảng Đông. Vào đời Thanh, có rất nhiều người Hoa ở các các địa phương vừa kể sang nước ta lập nghiệp nên nhà Nguyễn cho phép họ lập Hội Thất Phủ, tượng tự như Hội Hoa kiều ngày nay.
Căn cứ vào tên gọi, chúng ta biết miếu Thất Phủ tại Vĩnh Long có từ thời Nguyễn. Thời đó, chợ Vĩnh Long phố xá tấp nập. Theo Đại Nam nhất thống chí, hai mặt chợ Vĩnh Long đều giáp sông, phố xá liên tiếp, trăm mốI hàng hóa tấp nập đủ cả, chạy dài năm dặm, ghe thuyền đậu đầy bến sông. Có đình miếu thờ thần rực rỡ, đờn ca náo nhiệt, là chỗ phố phường lớn. Như thế, vàm sông Long Hồ, trước mặt miếu Thất Phủ hoặc miếu Minh Hương là bến thuyền, nên họ chọn nơi này đặt Hội quán giao tiếp.
Đến thời Pháp thuộc, số người Hoa đến Vĩnh Long làm ăn ngày một đông. Do yêu cầu lúc đó, những người Quảng Đông, Triều Châu tách ra lập bang hội riêng nên những người Phúc Kiến còn lại vào năm 1872 đã tái thiết miếu Thất Phủ, đổi lại là “Vĩnh An cung”, để làm Hội quán của bang mình.
Thất Phủ hội quán (Vĩnh An cung) ở địa chỉ Khu A, phường 5, thành phố Vĩnh Long ngày nay. Đây là công trình kiến trúc của nhóm thợ tài hoa gồm mười người từ Phúc Kiến sang, đứng đầu là công trình sư Hà Tạo. Tất nhiên, suốt giai đoạn xây dựng (từ năm 1892 đến 1909), họ phải có sự giúp sức của nhiều thợ khác như thợ mộc xây dựng, thợ đá, thợ hồ, trang trí, thợ sơn thiếp, họa sĩ, thợ cắt sành và thợ mộc trang trí.
Thất phủ miếu ở phường 5 - thành phố Vĩnh Long
Miếu Thất Phủ làm theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Phía sau là chính điện, phía trước là tiền đường, hai bên là Đông sương và Tây sương (nhà Đông và nhà Tây, người Việt thường gọi là Đông lang và Tây lang). Diện tích xây dựng khoảng 800 mét vuông, xung quanh được bao kín bởi những vách gạch kiên cố. Để một khoảng diện tích to rộng như thế ấy có đầy đủ ánh sáng, các công trình sư đã cho chừa những khoảng sân trống. Tuy các khu vực chính nằm xa nhau nhưng có thể thông hành qua lại nhờ các nhà nối, gọi là “hà cầu” (hà kiều), tức xem những sân trống đó là ao sen và những nhà nối ấy là những cây cầu bắc qua ao sen.
Theo truyền thống xây dựng của Trung Quốc, mái Thất Phủ miếu lợp ngói âm dương, được phong tô kỹ lưỡng. Chân mái ngói được viền một loại ngói đặt biệt có tráng men màu xanh. Đứng trước sân nhìn vào, nét đặc biệt nhất của nghệ thuật kiến trúc vùng Phúc Kiến cũng như nghệ thuật kiến trúc của miếu Thất Phủ là mái ngói cong vút và tầng mái gian giữa cao hơn tầng mái của hai gian bên. Một điểm đặc biệt nữa là miếu Thất Phủ xây dựng theo kiểu cung đình, có năm cửa cái. Hai ô cửa tượng trưng mặt trời, mặt trăng; trong miếu có nhiều hình ảnh cố sử.
Bộ giàn trò miếu Thất Phủ bằng gỗ quý. So với các công trình kiến trúc của người Việt (Nam bộ) thì bộ giàn trò này rất mỹ thuật và kiên cố. Tất cả các bộ phận trong chịu lực trong ngôi miếu như : vì, xuyên, trính, các con kê hoặc con đội đều chạm hình voi, sư, lân, chậu hoa, chùm trái… Các bộ phận này chạm trổ tinh vi, vừa mang tính hiện thực, vừa cách điệu, lại được sơn ngũ sắc hoặc thiếp vàng. Thỉnh thoảng một vài nơi giữa những bộ phận chạm trổ tinh tế ấy cũng có những khoảng trống, là chỗ để các họa sĩ đặt lên những bức tranh nhân vật cố sử. Do đó, khu vực này cầu kỳ nhưng không nhàm chán. Có thể nói, đây là công trình mỹ thuật xuất sắc chẳng những đối với các công trình của người Việt, mà còn của người Hoa nữa.
Trong miếu có ba bàn thờ chính, bàn thờ giữa là khánh thờ Quan Thánh Đế Quân, Quan Bình Thái Tử, Châu Xương Tướng quân. Khánh thờ bên tả thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. Khánh thờ bên hữu thờ Phước Đức Chánh Thần. Phước Đức Thánh Thần có hai vị Chiêu Tài Đệ Tử, Thiên Hậu Thánh Mẫu có hai thần vị Thiên Lý Nhãn (thấy ngàn dặm) và Thuận Phong Nhĩ (nghe ngàn dặm) hầu cận. Trong vách hông có tượng ngựa xích thố và Mã đầu Tướng quân của Quan Công. Ngoài ra còn có bàn thờ Phật Quan Âm, Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Di Lặc, Hộ pháp Long Thần… nhưng mang tính chất tín ngưỡng dân gian nhiều hơn tôn giáo.
Các tượng thờ kể trên đa số bằng gỗ, có một số bằng đồng, gốm sứ. Mặc dù bằng chất liệu gì thì các hiện vật này cũng đều tạo hình chân phương và sinh động, mô tả được cái nộI tâm của nhân vật ấy. Các tượng thờ này được sơn màu hoặc thếp vàng theo quy ước.
Nội cung Vĩnh An cung trang trí tuyệt đẹp. Có thể nói, không đâu có đến mấy chục bộ bao lam, câu đối, hoành phi chạm lộng tinh tế, sơn son thiếp vàng chói lọi như ở đây. Theo ký hiệu khắc trên các tác phẩm, đa số các hiện vật đều do các lò thợ ở Tân Giai, Tân Nhơn thực hiện. Các dạng hoành phi, câu đối ở miếu Thất Phủ đều có nét chữ rất đẹp. Một bức hoành khắc bốn chữ “Quan Thánh Phu Tử” được đem đi triển lãm ở hội chợ các nước thuộc địa tại Marseille (Pháp) năm 1922, được Huy chương đồng.
Hàng năm, tại miếu Thất Phủ có các ngày vía như ngày vía bà, vía Phước Đức Chánh Thần, tam Nguyên, Tứ Quý; đặt biệt nhất là ngày vía Ông (13 tháng giêng và 13 tháng năm), ngày Tất niên (15 tháng 12), có hàng ngàn người đến chiêm bái, chẳng những đã thu hút bà con người Hoa, mà còn người Việt ở địa phương nữa. Người ta đến chiêm bái Quan Thánh Đế Quân, một biểu tượng trọng nghĩa tuyệt vờI, một biểu tượng nhân dũng, tiết nghĩa, thuỷ chung… Bên cạnh đó, Thiên Hậu Thánh Mẫu và Phước Đức Chánh Thần là những vị thần phù hộ họ đi ra nước ngoài, những vị thần phù hộ họ làm ăn sinh sống. Quan Âm Bồ Tát cũng là Thiên Hậu Thánh Mẫu, với tấm lòng từ bi thường hiện ra cứu giúp người lương thiện tai qua nạn khỏi, phù hộ phụ nữ và trẻ con. Đặt biệt người Phúc Kiến thường thờ Quan Âm Bồ Tát vì truyền thuyết ngài đã xuất hiện tại Phổ Đà sơn, một ngọn núi ở hải đảo, ngoài khơi tỉnh này.
Thất Phủ miếu được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử – văn hóa (Quyết định số 152 QĐ/BT, ngày 25/1/1994).
Văn Thánh Miếu Vĩnh Long thờ đức Khổng Tử tại làng Long Hồ, nay thuộc phường 4, TP Vĩnh Long. Đó là một trong ba Văn Thánh Miếu được xây dựng đầu tiên ở Nam bộ: Văn Thánh Miếu ở Biên Hòa, Gia Định và Vĩnh Long. Văn Thánh Miếu Vĩnh Long xây dựng vào năm 1862. Các sĩ phu ở Biên Hòa, Gia Định, Định Tường không chịu làm tay sai cho Pháp và để giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc nên họ đã rời khỏi Gia Định, Biên Hòa để về Vĩnh Long tỵ địa. Họ đã xây dựng Văn Thánh Miếu để làm nơi ôn tập cho các sĩ tử và cũng là nơi để hoạt động văn hóa, đề cao các tiền hiền, giáo dục lòng yêu nước cho nhân dân.
Công trình nổi tiếng này được xây dựng từ năm 1864 và hoàn thành cuối năm 1866 với sự chủ trì của Kinh lược đại thần Phan Thanh Giản, Đề học Nguyễn Thông, sự đóng góp của nhiều đại thần cựu trào cùng sĩ phu và nhân dân ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Từ đó đến nay, Văn Thánh Miếu Vĩnh Long được trùng tu, tôn tạo vào các năm 1872, 1903, 1914, 1933, 1963 và 1994. Tuy đã nhiều lần được trùng tu, tôn tạo nhưng Văn Thánh Miếu Vĩnh Long vẫn giữ được vẻ đẹp tôn quý, thanh cao.
Cổng Tam quan của văn Thánh Miếu uy nghi trên đường Trần Phú bên dòng sông yên tĩnh. Năm 1928, cổng làm bằng cột gỗ mái ngói, năm 1936 được xây hai trụ cổng với đôi liễn mang những hình ảnh thơ mộng:
Văn Thánh Miếu
Liễu phố tân sào nha tháo nguyệt Hạnh đàn cửu chỉ mã tê phong (Nơi bờ sông, trên cây liễu bầy quạ thấy trăng kêu rộ Chốn sân hạnh, nhớ chuồng cũ lũ ngựa nghe gió thổi hí vang).
Con đường nhỏ dưới hai hàng cây dẫn tới Khổng Thánh Miếu - đền thờ Đức Khổng Tử
Tới năm 1964, được thay bằng đôi liễn mới:
Khổng môn truyền đạo thiên ban thượng Thánh Miếu sùng văn vạn đại tôn (Đạo truyền của Khổng Thánh trên ngàn bực Miếu Thánh sùng văn cả vạn năm).
Hai hàng cây cao thẳng tắp tạo cho khuôn viên vườn cảnh và khu di tích một bề sâu và không khí uy nghi trầm mặc lạ lùng. Con đường nhỏ dưới hai hàng cây dẫn tới Khổng Thánh Miếu - đền thờ Đức Khổng Tử. Trên con đường đó, giữa hoa lá đan xen, khách có thể chiêm ngưỡng ba tấm bia đá đã phôi pha với thời gian. Trước cổng đền là tấm bia ghi văn tài của cụ Phan Thanh Giản, mặt trước nêu lý do dựng miếu, xưng tụng công đức Thánh Nhân và triều đình, mặt sau dương danh những người có công. Hai bia khác đứng gần nhau ở phía ngoài nói về những nhân sĩ, thân hào và người có công trùng tu, cúng hiến cho Văn Thánh Miếu. Hai công trình quan trọng ở khu di tích này là Khổng Thánh Miếu và Văn Xương Các.
Khổng Thánh Miếu trước kia đơn sơ, cột cây mái ngói trên nền đất, năm 1903 mới được thay bằng cột gỗ căm xe, lót gạch tàu, lợp ngói đại và ngói ống. Trong đền, ở gian chính giữa, trong cùng là bàn thờ Đức Khổng Tử - vị tổ của đạo Nho. Khổng Tử quê ở làng Bình Xương, huyện Khúc Phụ (nước Lỗ, nay là tỉnh Sơn Đông Trung Quốc), sinh năm 551 và mất năm 479 trước Công Nguyên, thọ 73 tuổi. Ngài đã làm quan và giữ những chức vụ quan trọng ở nhiều nước như Tề, Vệ, Sở, Tống. Về già, ngài trở về nước Lỗ, mở trường dạy học ở đất Hạnh Đàn. Đời sau tặng ngài nhiều danh hiệu như Vạn Thế Sư Biểu, Đại Thành Chí Thánh, Thánh Văn, Thánh Nhân...
Khổng Thánh Miếu
Học thuyết của Khổng Tử hay đạo Nho là nền tảng cho đạo trị nước của các triều đại phong kiến, vì vậy các vua Trung Quốc đều lập miếu thờ và cúng tế ngài. Tư tưởng Nho giáo được truyền sang nước ta đã góp phần không nhỏ cho nền văn hóa và học thuật nên các vị vua nhà Lý, nhà Trần cũng lập miếu thờ Đức Thánh Văn. Học trò của Khổng Tử có trên 3.000 người, những người vượt trội cũng được thờ trong đền này: Trước bàn thờ Khổng Tử là bài vị bốn học trò giỏi nhất (Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử và Nhan Tử), hai bên là bài vị 12 học trò giỏi và hai bên phía ngoài sân đền thờ 72 đệ tử đắc ý của ngài.
Văn Xương Các nằm ngay bên phải lối vào khu di tích, hai bên có hai khẩu thần công. Những khẩu súng cổ này từ năm 1921 đã được đặt tại cầu tàu (trước viện Bảo tàng Vĩnh Long hiện nay), năm 1937 mới mang tới Văn Thánh Miếu và năm 1960 được đặt uy nghi trên bệ xây. Văn Xương Các trước kia là Thơ lầu, chỉ với nền đất, cột gỗ mái ngói nhưng có hai tầng. Tầng trên để tàng trữ văn thơ, chính giữa là bàn thờ ba vị thiên đế trông coi về văn học. Tầng dưới là nơi nghỉ ngơi cho khách đến cúng tế Khổng Tử, và nơi bình văn luận võ của các quan đại thần. Năm 1914 Thơ lầu được trùng tu với nền gạch, cột gỗ căm xe, mái lợp ngói ống, tầng trên treo biển Văn Xương Các (Gác thờ ba vị Văn Xương đế quân), tầng dưới treo biển Tụy Văn Lâu (Lầu nhóm văn nhân).
Văn tài của cụ Phan Thanh Giản dồi dào và đa dạng, còn lưu truyền nhiều tác phẩm giá trị như Lương Khê Thi Thảo, Lương Khê Văn Thảo, Thanh Thi Tập, Tây Phù Nhựt Ký,Ước Phu Thi Tập, Minh Mạng Chí Yếu, Việt Sử Thông Giám Cương Mục... Sinh thời, cụ là vị quan đại thần khiêm tốn, cương trực, hiếu nghĩa, liêm khiết và thương dân. Tháng 6/1867, Pháp tấn công ba tỉnh miền Tây Nam bộ, tình thế bắt buộc phải giao thành, cụ đã nhịn đói 17 ngày rồi uống thuốc độc tuẫn tiết sau khi dặn dò con cháu không hợp tác với Pháp. Nhân dân nhiều nơi, từ Bến Tre tới Vĩnh Long, Gia Định, Biên Hòa, Sông Bé...đã lập miếu thờ cụ. Đồng liêu và trí sĩ khắp ba miền đều có thơ văn phúng điếu. Đặc biệt, bài thơ Khóc cụ Phan của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu đã nói lên lòng trung hiếu và tâm sự u uất của cụ.
Văn Xương Các
Năm 1929, vua Khải Định ban sắc phong thần cho cụ tại Thủ Dầu Một - Sông Bé. Năm 1933, sau khi vua Bảo Đại ban sắc tái phong cho cụ là Đoan Túc Dực Bảo Trung Hưng Tôn Thần thì ở tầng dưới Thơ lầu đặt thêm biển đề Phan Thanh Giản thần miếu bằng chữ quốc ngữ. Từ đó tới nay, trên lầu vẫn thờ ba vị Văn xương đế quân và tầng dưới có 5 bàn thờ. Chính giữa, trong cùng là bàn thờ cụ Phan với ảnh do họa sĩ Phillippe Trân vẽ, hai bên có hai câu liễn:
Công cái tam triều cảnh cảnh điển mô chiêu á thánh Đức thùy bách tánh dương dương tiết liệt sắc phong thần (Công khó khắp ba trào chói chói điển mô so bậc thánh. Đức dày gieo trăm họ hây hây tiết liệt đáng phong thần).
Trước mặt cụ Phan là bàn thờ cụ Võ Trường Toản. Gian trái thờ các đại thần cựu trào, gian phải thờ các minh bang, tổng xã, gian sau thờ các hiền nhân, hương chức và từ có công với hai ngôi đền.
Kế bên Văn Xương Các là khu nhà trù, nhà tiệc.
Tại Văn Xương Các, mỗi năm có hai lễ cúng tế: Lễ giỗ cụ Phan Thanh Giản vào ngày 4 và 5 tháng 7 âm lịch. Lễ truy điệu chung các quan quân cựu trào có công và bỏ mình vì tổ quốc vào ngày 12 và 13 tháng 10 âm lịch.
Với những giá trị văn hóa truyền thống còn lưu giữ được, Văn Thánh Miếu Vĩnh Long đã được Bộ Văn hóa Thông tin ra Quyết định số 0557/QĐ ngày 25 tháng 3 năm 1991 công nhận là di tích văn hóa cấp quốc gia.
Bởi dulichtravinh.com.vn
Khu tưởng niệm nữ Anh hùng Nguyễn Thị Út (Út Tịch) tọa lạc tại ấp Ngọc Hồ, xã Tam Ngãi, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh (nay là xã Tam Ngãi, tỉnh Vĩnh Long).
Khu tưởng niệm có khuôn viên rộng 1,4 ha, nằm trên con giồng đất cát cao ráo, với các hạng mục công trình chính là Cổng tam quan, nhà dừng chân, khu tưởng niệm, khu trưng bày - truyền thống, khu hội thảo, chiếu phim, dịch vụ lưu niệm, tượng nữ Anh hùng Nguyễn Thị Út được khởi công xây dựng từ năm 2014 và hoàn thành năm 2016.
Đến với Khu tưởng niệm nữ Anh hùng Nguyễn Thị Út, thông qua các hiện vật, hình ảnh, tư liệu trưng bày, khách tham quan có dịp tìm hiểu một cách khái quát về hoàn cảnh xuất thân, quá trình tham gia kháng chiến và nhất là quyết tâm đánh giặc bảo vệ xóm làng không gì lay chuyển được của một người phụ nữ bình dị, sinh ra và lớn lên ở một làng quê nghèo khó, trước một kẻ thù mạnh hơn gấp bội.
Bên cạnh đó khách tham quan còn được cung cấp một cách hệ thống hơn những thành tích, chiến công trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống ngoại xâm và những thành tựu trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng bộ, lực lượng vũ trang và Nhân dân Cầu Kè.
Khu tưởng niệm nữ Anh hùng Nguyễn Thị Út là điểm nhấn quan trọng trong chuỗi các địa chỉ du lịch trên địa bàn Cầu Kè - vùng đất được mệnh danh “Vương quốc Dừa sáp”, bao gồm Vạn Niên Phong Cung với Vu lan thắng hội, Nhà cổ Huỳnh Kỳ, khu du lịch sinh thái vườn cù lao Tân Qui,…
Năm 2023, Khu tưởng niệm nữ Anh hùng Nguyễn Thị Út (Út Tịch) đã được UBND tỉnh Trà Vinh công nhận là điểm du lịch cấp tỉnh, đây được xem là địa chỉ đỏ để người dân khắp mọi miền Tổ quốc đến tham quan, tìm hiểu về lịch sử đấu tranh cách mạng của chị Út nói riêng cũng như của Đảng bộ, Quân và Nhân dân Cầu Kè anh hùng nói chung.
Vào cuối tháng 4-1930, chi bộ ĐCSĐD đầu tiên của tỉnh Bến Tre được thành lập tại nhà ông Nguyễn Văn Cung. Chi bộ gồm 10 đảng viên, nguyên là hội viên của chi bộ VNTNCMĐCH trước đó, do đồng chí Nguyễn Văn Ân thay mặt liên tỉnh ủy lâm thời Mỹ Tho - Bến Tre đứng ra thành lập. Đồng chí Nguyễn Văn Trí thay mặt Liên tỉnh ủy lâm thời Mỹ Tho - Bến Tre công nhận chi bộ do đồng chí Nguyễn Văn An làm Bí thư.
Bia lưu niệm cây da đôi
Chi bộ xã Tân Xuân, sau khi thành lập, đã tổ chức cuộc mít tinh quần chúng nhân kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5 tại cây da đôi, sau đó biến thành cuộc biểu tình tuần hành, thu hút trên 200 người tham dự.
Tại đây, sau ngày giải phóng (30-4-1975), Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch đã tổ chức dựng bia lưu niệm về sự kiện lịch sử này.
Di tích đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch ra quyết định số 985-QĐ/VH, công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 7-1-1993.
Bởi www.svhttdl.bentre.gov.vn
Trương Vĩnh Ký, biệt hiệu Sĩ Tải, tên thánh là Jean - Baptiste Pétrus (nên thường gọi là Pétrus Ký). Ông sinh ngày 6 tháng 12 năm 1837 tại làng Vĩnh Thành (còn gọi là Cái Mơn), tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, phủ Hoằng An, tỉnh Vĩnh Long (nay là xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre).
Khi mới sinh ra, ông có tên là Trương Chánh Ký. Ông là con thứ ba của Lãnh binh Trương Chánh Thi và bà Nguyễn Thị Châu. Lên năm tuổi, ông được đi học chữ Hán, sau đó ông được học trường dòng ở Cái Nhum. Năm 1848 Pétrus Ký sang học ở chủng viện Pinhalu ở Phnôm Pênh (Campuchia). Năm 1851, trường này chọn 3 học sinh xuất sắc trong đó có Pétrus Ký, để cấp học bổng đi du học tại Chủng viện giáo hoàng ở Pinang (Indonesia). Đây là một trường chuyên đào tạo tu sĩ cho vùng Đông Nam Á thời đó.
Năm 1858 ông đang học đến năm thứ 6 và chỉ còn 1 năm nữa là kết thúc khóa học để ra trường nhận chức linh mục thì hay tin người mẹ hiền qua đời nên ông vội vàng về nước để chịu tang mẹ. Ông trở lại Cái Mơn chịu tang xong ông phân vân không biết nên quay lại chủng viện hay đi làm. Lúc này Pháp đánh chiếm Việt Nam, từ Đà Nẵng, Sài Gòn rồi đến Gia Định tiếp theo là mất 3 tỉnh miền Đông nên việc cấm đạo Công giáo cũng gay gắt hơn nên cuối cùng ông quyết định không trở lại chủng viện nữa.
Ông lên Sài Gòn và được giới thiệu làm thông ngôn cho quân đội Pháp rồi giúp việc cho Toàn quyền Đông Dương và Giám quan cố vấn cho vua Đồng Khánh ở Cơ mật viện. Ông từng tháp tùng và làm thông ngôn giúp việc Phan Thanh Giản khi đi sứ sang Pháp, ông cùng với đoàn được triều kiến Napoleon đệ tam và thăm viếng các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý, Thái Lan, yết kiến Đức Giáo hoàng ở Roma,…để nghiên cứu về văn hoá, kinh tế, xã hội,…sau đó ông làm chủ bút tờ Gia Định báo, tờ báo tiếng Việt đầu tiên của Việt Nam (1865) để truyền bá chữ quốc ngữ. Năm 1861 ông thành hôn với bà Vương Thị Thọ và dời về cư ngụ tại Chợ Quán, Sài Gòn.
Nhà bia Trương Vĩnh Ký
Sau khi Pháp chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ, ông được dùng như một quan chức An Nam đầu tiên trong chính quyền Pháp đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng như Giáo sư Pháp văn Trường Thông ngôn (1866-1868), giám đốc trường Sư phạm kiêm Thư ký Hội đồng thành phố Chợ Lớn (1872), giáo sư Quốc văn và Hán văn cho người Pháp và Tây Ban Nha ở trường Tham biện hậu bổ (College des administrateurs stagiaires - 1874),..
Sau cái chết đột ngột của Toàn quyền Đông Dương Paul Bert (11/11/1886), ông không còn được trọng dụng nữa. Ông dùng thì giờ còn lại để đọc sách báo, nghiên cứu, viết sách và dạy ở Trường Hậu bổ và Trường Thông ngôn. Con người có tài như thế đến cuối đời lại sống trong cảnh nghèo nàn, thiếu thốn. Ông mất ngày 01 tháng 9 năm 1898 hưởng thọ 62 tuổi và được an táng tại Chợ Quán (Tp Hồ Chí Minh). Mộ phần và nhà ở khi xưa của ông (nay là nơi thờ phụng ông) hiện nằm nơi góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng thuộc quận 5, Tp. Hồ Chí Minh.
Ông hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực văn hóa ngoại, trừ 8 tháng hoạt động ở Viện Cơ mật của triều đình Huế và 8 tháng làm phiên dịch trong phái đoàn Việt Nam sang Pháp. Hiển nhiên, Trương Vĩnh Ký đã có những sai lầm về chính trị, mặc dù hoạt động chính trị của ông rất ngắn ngủi so với hoạt động văn hóa. Tuy vậy không vì thế mà ta phủ nhận toàn bộ những cống hiến của ông đối với văn hóa dân tộc. Đáng chú ý nhất là sự đóng góp vào sự phát triển và phổ cập chữ quốc ngữ ở giai đoạn ban đầu, vào lịch sử phát triển báo chí cũng như trong lĩnh vực văn học và ngôn ngữ học,..
Ông là một trong những bộ óc thông thái của người Việt, ngoài sinh ngữ Pháp, Anh, Latin, Hy Lạp, Ấn Độ, Nhật ông còn thông thạo cả tiếng Ý, Trung Quốc, Mã Lai, Lào, Thái, Miến Điện, tác giả của 118 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp và tiếng Việt, tiếng Hán cùng nhiều bản thảo chưa được công bố gồm nhiều lĩnh vực: lịch sử, địa lý, ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viết, tín ngưỡng, tôn giáo, từ điển, sưu tầm, dịch thuật và sáng tác thơ văn.
Chẳng hạn ông dịch sách chữ Hán, phiên âm chữ quốc ngữ những bản cổ văn Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Phan Trần, Gia Huấn Ca,.. biên soạn Chuyện đời xưa, Chuyện khôi hài, sách tiếng pháp: Grangd Dictionnaire Annamite - Française (đại từ điển An Nam – Pháp ), Cours d,histore Annamite (Bài giảng lịch sử An Nam ),….
Trương Vĩnh Ký là hội viên của hàng chục hội khoa học châu Âu. Ở cuối thế kỷ XIX, học giả người Pháp J.Bouchot gọi ông là “một nhà bác học duy nhất ở Đông Dương và cả nước Trung Hoa hiện đại nữa”. Ông từng giao thiệp với các danh nhân đương thời như: sử gia Renan, nhà từ điển Littré, đại văn hào Victor Hugo, kết giao bằng hữu với nhà sinh vật học, chính trị gia Paul Bert,… Ông là một nhà giáo, nhà báo, nhà văn và là nhà bác học kiệt xuất, người con ưu tú của đất Bến Tre.
Trong cuộc bầu chọn Toàn Cầu Bác Học Danh Gia năm 1874, ông dù mới ngoài 30 tuổi đã được người cùng thời tôn vinh là một trong mười tám nhà bác học danh giá trên thế giới (ông đứng thứ 17 trong 18 người của nhóm Toàn Cầu Thập Bát Văn Hào).
Để tưởng nhớ đến ông, nhân dân Bến Tre lập nhà bia nơi quê hương để thờ cúng, làm nơi học tập, nghiên cứu cho nhân dân trong và ngoài tỉnh. Nhà bia được xây dựng đơn sơ năm 1938 ở ấp Vĩnh Bắc, xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách ,tỉnh Bến Tre (gần rạch Cái Mơn ) giữa khu vườn xum xuê cây trái. Nhà bia có hình tứ giác, chóp hình tháp với 16 trụ cột, không tường, nền tráng xi măng, bên trong chỉ có bia bằng đá xanh cao khoảng 2,5m phía trên cùng của bia là cây thánh giá. Mặt trước bia được viết bằng 3 ngôn ngữ: Pháp, Hán và Việt, mặt sau được viết bằng tiếng Pháp.
Trước đây tên của ông được Bộ Giáo dục Việt Nam cộng hòa đặt cho trường trung học lớn nhất miền Nam (sau năm 1975 trường này được đổi tên thành Trường trung học Lê Hồng Phong ở Tp. Hồ Chí Minh). Hiện nay nơi quê hương của Trương Vĩnh Ký (xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách) có một trường THPT mang tên ông. Ngoài ra ông được xem là người có công với nghề làm vườn ở Cái Mơn. Các giống cây ăn trái như sầu riêng, chôm chôm, măng cụt, bòn bon đều do ông đem từ Pinang mỗi khi bãi trường về thăm nhà.
Ngày 13 tháng 9 năm 2012, UBND tỉnh Bến Tre ban hành Quyết định số 1763/QĐ-UBND về việc công nhận Chùa An Linh (xã An Nhơn, huyện Thạnh Phú) là di tích cấp tỉnh về lịch sử cách mạng và tín ngưỡng tôn giáo.
Chùa An Linh
Từ thành phố Bến Tre, qua cầu Hàm Luông theo quốc lộ 60, rồi theo đường tỉnh 888 đến thị trấn Thạnh Phú (44km), đi tiếp theo hướng đến UBND xã An Nhơn (12km), rẽ phải vào huyện lộ 51 khoảng 500m là đến di tích.
Chùa An Linh tọa lạc trên khu đất giồng ấp An Hòa, xã An Nhơn có diện tích 3.850,7m2; diện tích xây dựng chùa là 424,44m2. Kiến trúc của chùa dạng tứ trụ, nóc hình chóp. Nội thất bên trong chủ yếu là những bệ thờ bằng xi măng lát gạch ceramic và ban thờ bằng gỗ. Phía trên bệ thờ được đặt trang nghiêm tượng phật Di Lạc. Trong những năm kháng chiến, phía dưới bệ thờ của tượng phật Di Lạc này được xây dựng hầm bí mật có diện tích khoảng 1,5m2 để che chở những cán bộ cách mạng của địa phương. Hiện nay, khu chính điện là nơi thờ Phật Di Lặc, Quan Thế Âm, Tiêu Diện, Thích Ca, Hộ Pháp, Tam Tạng,…
Bởi Trần Hoàng Huấn | Bảo Tàng tỉnh
Di tích Đền thờ Ân sư tiền vãng (Miếu Tiên sư) tọa lạc tại phường An Hội, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
Về thời gian xây dựng Đền thờ Ân sư tiền vãng cho đến nay vẫn chưa xác định được chính xác. Cho dù bên ngoài hai bên cổng đền thờ có khắc năm 1969 (năm Kỷ Dậu) nên nhiều người cho rằng đền thờ được xây dựng năm 1969.
Đền thờ Ân sư Tiền vãng (miếu Tiên sư). (Ảnh: Bảo tàng Bến Tre)
Tuy nhiên, theo ông Vũ Hồng Thanh (nguyên Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy), vào năm 1956, ông Nguyễn Văn Trinh - Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Trung học công lập Kiến Hòa, ngôi trường trung học đầu tiên của tỉnh đã vận động quyên góp tiền xây dựng Đền thờ Ân sư tiền vãng để tri ân các thầy cô giáo đã có công trong sự nghiệp giáo dục của tỉnh nhà lúc bấy giờ. Ngôi đền lúc này với chất liệu gỗ, mái ngói, nền tráng xi măng cao ráo. Kiến trúc được xây dựng theo kiểu dáng truyền thống với dáng vẻ tôn nghiêm. Đến năm 1969 (năm Kỷ Dậu), ông Mai Thọ Truyền, người giữ chức Quốc vụ khanh - Đặc trách văn hóa lúc bấy giờ của chính quyền Sài Gòn đã cấp ngân sách để trùng tu lại ngôi đền.
Bên cạnh đó, ông Nguyễn Văn Thiêm - Trưởng ty Tiểu học tỉnh Kiến hòa cũng đã vận động một khoảng đóng góp từ phụ huynh, học sinh và mạnh thường quân để tăng thêm nguồn kinh phí xây dựng. Đến tháng 10 năm 1969, ngôi đền được khánh thành đưa vào sử dụng. Ngày khánh thành Đền thờ Ân sư tiền vãng được tổ chức rất long trọng, có sự tham dự của nhiều thân hào nhân sĩ, giáo viên, các cấp chính quyền, đặc biệt là sự có mặt của ông Trần Văn Hương là nhà giáo lão thành, lúc ấy là Thủ tướng Việt Nam cộng hòa và ông Mai Thọ Truyền là Quốc vụ khanh của chính quyền Sài Gòn.
Đến năm 1999, UBND tỉnh Bến Tre thực hiện nâng cấp, lát gạch nền cho ngôi đền thêm phần khang trang và hàng năm công tác tu sửa, chỉnh trang luôn được thực hiện định kỳ trong các dịp lễ, Tết.
Đền thờ được xây dựng nhằm tôn vinh và tri ân công ơn của các thế hệ nhà giáo. Cứ đến ngày 20/11 hàng năm, đông đảo các thế hệ học sinh, sinh viên, giáo viên và nhân dân tề tựu về đây thắp hương tưởng niệm cho những thầy, cô đã có công đào tạo nhân tài cho tỉnh nhà nói riêng và đất nước nói chung.
Ngày 18 tháng 06 năm 2021, UBND tỉnh Bến Tre ra quyết định số 1407/QĐ-UBND công nhận Đền thờ Ân sư tiền vãng (Miếu tiên sư) là di tích lịch sử cấp tỉnh.
Lịch sử hai cuộc KCCP và KCCM đã ghi lại hai lần vượt biển từ xã Thạnh Phong huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre ra thủ đô Hà Nội để gặp Trung ương báo cáo tình hình và xin chi viện cho chiến trường Nam Bộ.
Lịch sử hai cuộc KCCP và KCCM đã ghi lại hai lần vượt biển từ xã Thạnh Phong huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre ra thủ đô Hà Nội để gặp Trung ương báo cáo tình hình và xin chi viện cho chiến trường Nam Bộ. Lần thứ nhất là vào đầu tháng 4-1946, đã đến đích an toàn. Tháng 11-1946, chuyến chi viện vũ khí đầu tiên từ bờ biển tỉnh Phú Yên vào Bến Tre do đồng chí Nguyễn Thị Định, thành viên của đoàn phụ trách, đã cập bến an toàn. Lần thứ hai diễn ra vào ngày 1-6-1961, sau cuộc Đồng khởi 8 tháng, cũng đã thành công tốt đẹp, mặc dù màng lưới phong tỏa, kiểm soát của địch hiện đại hơn, ngặt nghèo hơn. Từ hai sự kiện trên đã đưa đến một quyết định của Trung ương là mở đường Hồ Chí Minh trên biển, để chi viện cho cách mạng miền Nam (xem thêm mục Sự kiện đáng nhớ).
Di tích đầu cầu tiếp cận chi viện Bắc - Nam
Trong những năm chống Mỹ, hàng ngàn tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh khác của Trung ương chi viện cho cách mạng miền Nam qua đường Hồ Chí Minh trên biển đã đến nhiều địa phương dọc theo duyên hải miền Trung đến tận mũi Cà Mau để tiếp sức cho cuộc kháng chiến, mà đầu cầu tiếp nhận vũ khí ở xã Thạnh Phong (gồm vàm Khâu Băng, cồn Bửng, cồn Lợi, cồn Lớn) là một trọng điểm. Tại đây, Bộ Tư lệnh miền đã thành lập Đoàn 962 có nhiệm vụ bảo vệ đầu cầu, tiếp nhận hàng chi viện, rồi từ đây lan tỏa ra các chiến trường Nam Bộ như Sài Gòn, các tỉnh miền Đông và miền Trung Nam Bộ và cho các đơn vị chủ lực của miền.
Địch đã dùng đủ mọi thủ đoạn đánh phá, ngăn chặn, nhưng chỉ có thể gây cho ta một số tổn thất nhất định, chúng không thể nào cắt đứt được mạch máu giao thông liên lạc Bắc Nam của cách mạng.
Địa điểm khu di tích của xã Thạnh Phong (vàm Khâu Băng, cồn Bửng, cồn Lợi, cồn Lớn) nằm cách thị trấn Thạnh Phú 25 km, cách thành phố Bến Tre 70 km. Có thể đến khu di tích bằng hai đường thủy và bộ, cả hai đều thuận tiện.
Di tích đầu cầu tiếp nhận vũ khí Bắc Nam ở xã Thạnh Phong đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch ra quyết định số 3777-VH/QĐ công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 23-12-1995, và xã Thạnh Phong cũng đã được Nhà nước tuyên dương là đơn vị Anh hùng LLVTND.
Nhà cổ Huỳnh phủ (Hương Liêm) là một công trình kiến trúc điêu khắc gỗ rất độc đáo, hiện nội thất còn bảo tồn gần như nguyên vẹn. Ngôi nhà tọa lạc tại xã Đại Điền, huyện Thạnh Phú được xây dựng cách nay hơn 100 năm do ông Huỳnh Ngọc Khiêm (1843 - 1927) làm nên. Ông là người miền Trung (theo lời truyền miệng từ đời trước) vào miền Nam lập nghiệp, từ lúc còn trắng tay cho đến khi lập nên sự nghiệp giàu có vào bậc nhất ở vùng cù lao Minh và đất Bến Tre lúc bấy giờ.
Ngôi nhà có diện tích trên 500m2 (rộng khoảng 17m, dài 25m, cao 5,70m) được cất theo kiểu nhà xuyên trính, hình chữ nhất, ba gian hai chái và hai liễm đôi theo kiểu chái bắt vần với liễm, nhà có 48 cây cột bằng gỗ lim, đường kính của cột từ 0,40 - 0,50m (kể cả cột chái và cột liễm) và 32 cột gạch (hàng cột thứ tư) thay cho cột gỗ bị hư hỏng vào những năm 1945 - 1954. Kèo là những thanh gỗ to đẽo cong chạy chỉ viền và chạm nổi hoa văn, đầu kèo chạm hình rồng. Nền xây tam cấp, lót gạch tàu, mái lợp ngói âm dương.
Nội thất chia thành 2 phần: từ cột nhứt của mặt hậu trở vào sử dụng sinh hoạt gia đình, từ cột nhứt của mặt hậu trở ra cột hàng nhì của mặt tiền sử dụng vào việc thờ tự. Liễm và chái mặt tiền sử dụng chủ yếu vào việc phục vụ lễ tân. Mỗi căn bố trí một khánh thờ xếp thành 2 lớp, chạm trổ công phu, sơn son thếp vàng tất cả đều được đặt trên ghế thờ. Phía tả thờ Cửu Huyền Thất Tổ, giữa thờ Phật Bà Quan Âm, phía hữu thờ ông, bà Huỳnh Ngọc Khiêm.
Khánh thờ Phật Bà Quan Âm chạm trổ long, lân, phụng theo lối long phụng tranh châu, nền đế là 2 kỳ lân đối diện, cùng nhe nanh, mặt hướng ra ngoài, chân trụ chạm rồng 3 móng, mặt hướng lên trên (theo truyền tụng rồng 3 móng thường dành cho dân thượng lưu, rồng 4 móng dành cho quan lại, rồng 5 móng dành cho vua). Hai khánh thờ còn lại chạm hình hoa trái, công phụng gặp bầy. Nền đế chạm nhiều loại trái cây, thân trụ chạm chim, hoa, cây, trái,.. Phía trên chạm hoa, cây, trái cùng hướng vào vầng thái dương. Tất cả các bức hoành phi, bài vị, biển đề,…đều viết bằng chữ Hán khắc vào gỗ, chạm trổ hoa văn rất công phu, được sơn son thiếp vàng hoặc cẩn xà cừ, có tuổi đời tương đương với tuổi thọ ngôi nhà.
Thợ làm nhà là những người thợ có thể từ miền Trung hoặc miền Bắc vào, nơi vốn nổi tiếng với nghề chạm khắc gỗ từ lâu đời. Tài hoa của thợ thủ công có kĩ - nghệ thuật khắc gỗ, chạm lộng điêu luyện phải kể đến các bức vách trước các gian giữa với diện tích gần 100m2. Đó là bức tranh mô tả cảnh vật thiên nhiên rất sinh động của vùng đồng bằng sông nước, của vùng đất cù lao bốn mùa cây xanh, trái ngọt. Với cảnh vật thanh bình, chim muôn ca hát cùng các loại sinh vật khác được chạm trổ rất công phu. Theo truyền tụng, thời gian hoàn thành vách phênh tương đương với thời gian từ dở gỗ đến gát đòn dông (khoảng trên 10 năm). Tiền công thù lao cho người thợ không tính bằng ngày công mà tính bằng khối lượng dăm bào sau một ngày lao động. Mỗi chén dăm bào được trả 5 cắc bạc, riêng thợ cái được trả 2 đồng một ngày, cơm nước chủ nhà đài thọ (thời gian này một giạ lúa bằng 1,8 cắc bạc).
Nhà cổ Huỳnh phủ (Hương Liêm)
Không ai biết ngôi nhà được xây dựng vào năm nào, chỉ biết mất một thời gian rất dài mới hoàn thành với những chuyện kể gần như là giai thoại. Chuyện kể lại rằng: các người thợ lúc kéo gỗ khởi công làm nhà ăn bưởi và ném hột quanh nhà. Rồi hột bưởi nẩy mầm thành cây, lớn lên cho trái chín mà ngôi nhà vẫn chưa xong (một cây bưởi trồng từ hột phải 6 - 7 năm mới cho trái). Khi người thợ cả mất, ông Khiêm rước vợ con ông ấy vào và lo đám tang chu toàn. Các thợ làm nhà khi còn bé cho đến khi lớn lên được ông đứng ra lo việc vợ con mà ngôi nhà vẫn chưa hoàn thành.
Nhưng nếu căn cứ vào bức hoành phi mừng tân gia họ Huỳnh của Tri huyện Bảo An - Thái Hữu Võ tặng vào năm Giáp Thìn (huyện Bảo An thuộc cù lao Bảo, tỉnh Bến Tre lúc bấy giờ) thì ta biết rằng: ngôi nhà được hoàn thành trước năm Giáp Thìn (1904) vì năm 1904 là năm tổ chức ăn tân gia. Vì thế có thể ngôi nhà được xây dựng vào khoảng cuối thập niên 80 hoặc đầu thập niên 90 của thế kỷ XIX. Nhìn các công trình chạm khắc gỗ dầy đặc và tỉ mỉ ở nội thất ngôi nhà, chúng ta thấy thời gian xây dựng kéo dài là hoàn toàn hợp lý khi mà ở thời điểm đó toàn bộ các công việc từ cưa, xẻ gỗ đến tiện, đục, bào, chạm đều được làm bằng thủ công.
Đây là một ngôi nhà cổ có kiến trúc đẹp thuộc dạng hiếm hoi của tỉnh Bến Tre. Nội thất ngôi nhà trang trí các bức hoành phi sơn son thiếp vàng, liễn áp cột cẩn ốc xà cừ, các hoa văn chạm khắc gỗ thể hiện các đề tài như bát bửu, tứ linh, tứ quí, sen hạc, tùng lộc, bách điểu, Nhị Thập Tứ Hiếu,… Công trình ngoài nội dung trang trí còn mang ý nghĩa cầu mong đa phúc, đa lộc, an khang, thịnh vượng cho gia chủ.
Khu mộ cách ngôi nhà cổ 3km thuộc xã Phú Khánh, huyện Thạnh Phú, diện tích 966m2 (34,5m x 28m) được ông Khiêm tạo lập vào năm Tân Hợi (1911) để chuẩn bị cho hậu sự của mình. Vật liệu xây dựng là đá xanh từ hàng rào bên ngoài cho đến phần lăng mộ bên trong. Rào cao khoảng 1,5m gồm 2 phần: trên là những thanh đá được cắt hình chữ nhật hoặc hình tam giác, phần dưới là những phiến đá nguyên. Mái cổng làm 2 tầng, tạc hình ngói ống tre, nóc mái trên trang trí hình con dơi, giữa 2 tầng mái là hoa văn dây leo, phần dưới cùng là hoa văn dây leo và quả lựu.
Bên trong khu mộ được chia làm 2 phần: bên trong là nền ciment được kè đá xanh chung quanh, nơi mộ của ông bà Huỳnh Ngọc Khiêm, bên ngoài là nền đất có 4 ngôi mộ gồm mộ ông Hội đồng Huỳnh Ngọc Cứ (con ông Huỳnh Ngọc Khiêm) và vợ là bà Ngô Thị Châu, cùng với mộ của bà Huỳnh Thị Điểu và ông Huỳnh Ngọc Hổ (là anh em của ông Huỳnh Ngọc Cứ).
Hai ngôi mộ của ông bà Huỳnh Ngọc Khiêm làm giống nhau theo kiểu lăng mộ với tường đá cao bao bọc xung quanh. Chân mộ là tấm bia cao 1,5m, rộng 1,2m có mái che với hoa văn trên nóc và chân bia. Mặt trước bia khắc chữ Hán với nội dung là ngày tháng năm tạo lập khu mộ, tên tuổi, ngày sinh, ngày mất của người chết và tên người lập phần mộ. Mộ bà cũng được làm và trang trí giống như mộ ông nhưng hoa văn trang trí và nội dung các câu chữ Hán thì khác nhau. Công trình thể hiện nét tài hoa của người thợ điêu khắc đá với nhiều hoa văn tinh xảo: dơi, dây leo, quả lựu, mãng cầu,… cùng với các con vật như tùng, lộc, lân, nghê,… và cột, trụ đá khắc chữ Hán.
Nhà cổ Huỳnh Phủ (Hương Liêm) và khu mộ thuộc xã Đại Điền, xã Phú Khánh, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia bằng Quyết định số 1251/QĐ-BVHTTDL ngày 14 tháng 4 năm 2011.
Khu căn cứ này còn có mật danh là T4, Y4. Từ thành phố Bến Tre theo quốc lộ 60, qua phà Hàm Luông đi đến ngã ba chợ Xép rẽ phải đi tiếp 5 km nữa là đến xã Tân Phú Tây và xã Thành An thuộc huyện Mỏ Cày.
Sau Tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), địch phản kích quyết liệt, tăng cường hành quân càn quét, dùng phi pháo đánh phá khốc liệt ở vùng giải phóng và những nơi mà chúng nghi là có lực lượng cách mạng đang trú đóng.
Căn cứ của Khu ủy Sài Gòn-Gia Định
Tháng 6-1969, sau khi thống nhất giữa thường vụ Khu ủy và lãnh đạo tỉnh Bến Tre, cơ quan lãnh đạo của Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chuyển về đóng tại xã Tân Phú Tây. Đây là vùng mới giải phóng, nhân dân kiên cường, có trình độ giác ngộ chính trị cao, địa hình lại rất hiểm trở, nhiều kênh rạch chia cắt, có nhiều vườn dừa liên tiếp che chắn, địch không thể hành quân bằng xe cơ giới, thiết giáp, kể cả việc dùng trực thăng đổ quân cũng bị nhiều hạn chế.
Bên trong căn cứ, ta thiết lập hàng chục hầm kiên cố có khả năng chịu đựng được pháo 105 ly, những công sự chiến đấu và hệ thống hầm bí mật, chỗ làm việc của lãnh đạo Khu ủy, nơi giành cho các cuộc hội nghị, cơ sở hậu cần, bảo vệ v.v…
Ở vòng ngoài là hành lang bảo vệ và đầu mối liên lạc, gồm các xã chung quanh như Thành An, Hòa Lộc, Thạnh Ngãi, Phước Mỹ Trung.
Gián điệp và do thám của địch cũng đã đánh hơi biết được cơ quan đầu não của Sài Gòn - Gia Định đang đóng tại căn cứ này, nên đã tung lực lượng thăm dò, tổ chức nhiều cuộc hành quân càn quét, nhưng đều bị lực lượng bảo vệ cùng lực lượng vũ trang tỉnh bẻ gãy, tiêu diệt hàng trăm tên…
Thời gian đóng căn cứ ở đây không dài, nhưng cơ quan Khu ủy Sài Gòn - Gia Định đã được sự hỗ trợ, cưu mang đầy tình nghĩa của quân và dân huyện Mỏ Cày nói riêng và tỉnh Bến Tre nói chung.
Sau chiến tranh, những di tích của căn cứ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định coi như bị bom đạn của địch xóa sạch. Để lưu giữ lại dấu tích của một thời chiến đấu gian khổ, hào hùng, tỉnh đã phục chế lại hai hầm trú ẩn bằng bê tông giả thân cây dừa và dựng bia lưu niệm tại xã Tân Phú Tây.
Di tích này đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch ra quyết định số 3777/QĐ/BT công nhận là di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia ngày 23-12-1995.
Chùa Tuyên Linh được xây dựng từ năm Tân Dậu (1861), dưới triều Tự Đức năm thứ 14, nằm sát bên rạch Tân Hương, trên đường từ cái Bần đi Phú Khánh, thuộc xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày. So với Hội Tông cổ tự ở xã Quới Sơn, huyện Châu Thành, thì chùa Tuyên Linh không cổ bằng, nhưng nơi đây đã từng diễn ra nhiều sự kiện lịch sử đáng chú ý.
Chùa được xây dựng năm 1861, do hòa thượng Khánh Phong trụ trì. Đến năm 1907, nhà sư Lê Khánh Hòa, pháp danh là Thích Như Trí, quê ở xã Phú Lễ, huyện Ba Tri, vốn là một vị cao tăng tinh thông phật học, về trụ trì tại chùa này. Tại đây, hòa thượng Lê Khánh Hòa đã mở mang việc thuyết giảng giáo lý nhà Phật, đào tạo môn sinh. Nhờ hiểu rộng, đi nhiều nơi, có vốn nho học, lại biết cả chữ quốc ngữ, nên ông được tín đồ, các cư sĩ Phật giáo tín nhiệm. Hòa Thượng là người sáng lập ra Nam Kỳ Phật học hội và Lưỡng Xuyên Phật học hội quy tụ nhiều cao tăng, cư sĩ Phật giáo ở Nam Kỳ lúc bấy giờ, đồng thời là chủ bút tạp chí Từ bi âm, giám đốc Phật học tùng thư.
Chùa Tuyên Linh
Năm 1930, nhân dịp chùa được trùng tu, hòa thượng Lê Khánh Hòa đổi tên Tiên Linh tự thành Tuyên Linh tự. Từ đấy chùa được gọi bằng tên mới: Tuyên Linh.
Theo tài liệu của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Đồng Tháp, thì vào khoảng cuối năm 1926, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh - đã cùng một vị cao tăng của chùa Từ Đàm ở Huế ghé lại và tá túc tại chùa Tuyên Linh một thời gian.
Theo sư Thái Không, cụ Phó bảng được sự bảo bọc, giúp đỡ của hòa thượng Lê Khánh Hòa, trong thời gian lưu trú tại chùa, đã mở lớp dạy học, xem mạch, bốc thuốc cho nhân dân trong vùng. Tuy thời gian ở đây không lâu, cụ Nguyễn Sinh Sắc có quan hệ với Trần Văn An, Huỳnh Khắc Mẫn, Lê Văn Phát. Nhiều người trong số này về sau trở thành lớp Đảng viên đầu tiên của Đảng bộ Bến Tre (1930).
Khi CMT8-1945 thành công, hòa thượng Lê Khánh Hòa đã động viên các nhà sư và tín đồ Phật giáo trong tỉnh tham gia vào các hoạt động cách mạng và kháng chiến. Năm 1947, do tuổi già sức yếu, trên giường bệnh, ông bình tĩnh đọc lời di ngôn cho môn đồ chép lại, sắp xếp công việc đạo, căn dặn học trò thân tín vận động tín đồ tích cực tham gia kháng chiến, tin tưởng vào chính phủ Cụ Hồ, cùng đồng bào cả nước đấu tranh giành độc lập. Ngày 19-6-1947, biết mình không qua khỏi, ông bảo học trò tắm rửa sạch sẽ, thay đạo phục cho ông, rồi day mặt về hướng Bắc, nói những lời chúc tụng cuối cùng về nhà nước độc lập, về sức khỏe của Hồ Chủ Tịch, sau đó niệm Phật rồi tắt thở.
Năm 1956, để tỏ lòng tôn kính một vị chân tu yêu nước, giáo hội Phật giáo tăng già và Lục hòa tăng đã cùng các tín đồ tổ chức lễ Trà tỳ (tức lễ thiêu hài cốt đưa tro vào bảo pháp) tại chùa Tuyên Linh.
Thời KCCP, chùa Tuyên Linh là cơ sở nuôi giấu cán bộ cách mạng. Trong những năm trước Đồng khởi, trong thế kìm kẹp khắc nghiệt của Mỹ, Diệm, vùng Tân Hương - Minh Đức, nơi có ngôi chùa Tuyên Linh , vẫn là nơi có phong trào mạnh. Các cơ quan Huyện ủy Mỏ Cày và Tỉnh ủy Bến Tre đã từng trú đóng tại đây trong sự đùm bọc của nhân dân và tín đồ đạo Phật giáo giữa những ngày khó khăn nhất của cách mạng.
Chùa được Bộ Văn hóa - Thông tin ra quyết định số 921-QĐ/BTcông nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 20-7-1994.
Nguyễn Ngọc Thăng quê làng Mỹ Thạnh, huyện Tân An, nay là xã Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm, năm 1848 giữ chức Lãnh binh trong quân đội dưới triều Thiệu Trị. Năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, ông đem binh ứng cứu, nhưng chưa kịp đến nơi thì thành bị hạ. Ông được lệnh đóng giữ phòng tuyến Kỳ Hòa, ở đồn Cây Mai. Do lực lượng quá chênh lệnh, sau một thời gian cầm cự, ông rút quân về Gò Công, cùng phối hợp chiến đấu với nghĩa quân Trương Định. Ngày 27-6-1866, ông bị trúng đạn, tử thương trong một trận giao chiến kịch liệt với Pháp. Thi hài ông được đưa về quê bằng ghe, quàn tại một con giồng nhỏ cách chợ Mỹ Lồng gần 1.000m.
Đền thờ Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng
Sau khi ông chết, vua Tự Đức có phong sắc, áo mũ và một thanh gươm, nhưng vì chiến tranh nên những di vật này đặt ở đền thờ ông ở ấp Giồng Keo bị hư hỏng, thất lạc. Từ năm 1984, nhân dân địa phương đã đem bài vị của ông vào thờ ở đình Mỹ Thạnh như một vị thần đã có công trong sư nghiệp chống ngoại xâm, tại ấp Chợ, xã Mỹ Thạnh, nằm bên cạnh đường tỉnh 885, cách thành phố Bến Tre 6,5 km.
Ngày giỗ ông hàng năm là ngày rằm tháng 5 âm lịch. Di tích được Bộ Văn hóa - thông tin ra quyết định số 985-QĐ/VH công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 7-5-1997.
Nguyễn Đình Chiểu, sau khi bị mù hai mắt, mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh ở Bình Vi, Gia Định. Khi quân Pháp chiếm thành Gia Định, ông chạy về quê vợ ở làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc. Khi 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ rơi vào tay giặc, Nguyễn Đình Chiểu rời Cần Giuộc về Ba Tri (1862). Tại đây, ông tiếp tục mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân và sáng tác thơ văn chống Pháp cho đến cuối đời. Những tác phẩm có giá trị nhất của ông đều được viết từ nơi đây.
Đền thờ Nguyễn Đình Chiểu
Ngày 3-7-1888, ông trút hơi thở cuối cùng, hưởng thọ 66 tuổi. Người ta kể rằng, hôm đưa đám tang ông, cánh đồng An Bình Đông, nay là xã An Đức, huyện Ba Tri, trắng xóa khăn tang – khăn tang của học trò, của các thân chủ được ông chữa khỏi bệnh, của bạn bè và bà con xa gần mến mộ tài đức của ông. Khu mộ gồm có mộ nhà thơ, mộ bà Lê Thị Điền, người vợ đồng thời cũng là người trợ thủ đắc lực của ông trong sự nghiệp sáng tác thơ văn cũng như trong các họat động xã hội khác, mộ bà Sương Nguyệt Anh, con gái nhà thơ, người nữ chủ bút báo Nữ giới chung.
Hiện nay, khu mộ được mở rộng thành khu di tích Nguyễn Đình Chiểu, có quy mô lớn hơn, gồm đền thờ, nhà lưu niệm tại xã An Đức, huyện Ba Tri, cách trung tâm thị trấn 2km về phía nam, nhằm tỏ lòng kính yêu một nhà thơ yêu nước lớn của dân tộc ở nửa sau thế kỷ XIX, vừa để phục vụ cho việc tham quan, nghiên cứu, giáo dục truyền thống yêu nước đối với các thế hệ hôm nay. Di tích được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 27-4-1990.
Võ Trường Toản người huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, là người học rộng tài cao, thông đạt kim cổ. Thời chiến tranh Tây Sơn - Nguyễn Ánh, ông ở ẩn nơi quê nhà, mở trường dạy học, không tham gia vào chính trị, từ chối mọi điều ban phát.
Nhiều học trò của ông nổi tiếng như Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định (lúc bấy giờ được gọi là Gia Định tam gia thi), Ngô Tùng Châu, Phạm Ngọc Uẩn, Lê Bá Phẩm… Ông mất ngày 27-7-1792.
Đền thờ Võ Trường Toản
Khi ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ rơi vào tay giặc Pháp, một số trí thức ở Gia Định không muốn người thầy học kính yêu của mình gởi xương cốt ở nơi bị giặc chiếm, nên đã tổ chức di dời hài cốt Võ Trường Toản về làng Bảo Thạnh, thuộc tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre), lúc bấy giờ còn là đất tự do. Văn bia dựng tại mộ do Phan Thanh Giản soạn thảo.
Hiện nay, khu mộ của ông bà và con gái được xây dựng theo dạng voi phục, nằm trong khuôn viên thoáng rộng, có cây che bóng mát, có nhà thờ mái cong, 2 tầng để thờ Võ Trường Toản và làm nơi tưởng niệm của khách thập phương.
Di tích mộ Võ Trường Toản được Bộ Văn hóa – Thông tin ra quyết định công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 24-1-1998.
Đình nằm trên khu đất giồng ở ấp Bình Minh, làng Bình Hoà, nay thuộc thị trấn Giồng Trôm, nằm cạnh đường 885, cách thành phố Bến Tre 16km, có thể đến bằng đường bộ hoặc đường thủy.
Đình Bình Hòa được xếp trong danh mục 20 ngôi đình lớn và đẹp của tỉnh Bến Tre, là ngôi đình cổ nhất ở cù lao Bảo. Những tài liệu còn lưu giữ được đến nay cho biết đ ình đ ư ợc lập vào thập kỷ thứ 2, thế kỷ XIX, tính đến nay gần 200 năm. Ngôi đình có quy mô kiến trúc tương đối lớn còn giữ được đến ngày nay, không phải là dạng nguyên sơ của nó, mà đã được xây cất lại vào năm 1903. Từ khi khởi công xây dựng đến khi hoàn tất phải mất trên 10 năm (1903-1913), kể cả công trình kiến trúc bên ngoài và trang trí nội điện, đặc biệt là phần điêu khắc gỗ. Đó là kết quả lao động công phu của những nhóm thợ rước từ miền trung vào, có tay nghề và trình độ mỹ thuật cao. Đình được sắc phong vào năm Tự Đức thứ 6 (1852).
Về mặt kiến trúc bên trong, chất liệu chính là gỗ tứ thiết và kết cấu bằng mộng, chốt, kết hợp chặt chẽ với nghệ thuật điêu khắc, mà chủ yếu là những nét tạc bằng đục của nghệ nhân ngay trên gỗ của những vì kèo, xuyên, trính, hoành phi…ở các gian chánh đường và thính đường. Qua thử thách của thời gian với nắng mưa và khí hậu ẩm thấp, đặc biệt tác động phá hoại trực tiếp của bom đạn trong suốt 30 năm, ngôi đình vẫn đứng vững. Điều đó nói lên trình độ kỹ thuật và ý thức trách nhiệm của đội ngũ thợ xây dựng. Về trang trí bên trong cũng như những công trình nghệ thuật khác ở bên ngoài của đình, vẫn là sự kết hợp yếu tố nghệ thuật cung đình với nghệ thuật tôn giáo và được dân gian hóa ở mức độ nhất định. Đó là những đề tài lân, long, quy, phụng, chim muông,sen-cua, trúc-tước, nho-sóc, bần-cò v.v…
Đình Bình Hòa còn là chứng tích ghi nhớ những tội ác của đội quân UMDC của Léon Leroy (thời KCCP) và đặc biệt bọn “công an Ngô Quyền” trong những chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” đẫm máu dưới thời Ngô Đình Nhiệm.
Hiện còn hơn 100 hiện vật điêu khắc gỗ tinh vi, sắc sảo, gồm những bức hoành phi, liễn đối, bao lam, phù điêu, hương án, đồ lễ bộ… được lưu giữ. Hằng năm vào rằm tháng giêng (âl) diễn ra lễ cúng đình lần thứ nhất và vào rằm tháng chạp (âl) lần thứ hai.
Đình Bình Hòa được Bộ Văn hóa – Thông tin ra quyết định công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 7-1-1993.
Căn cứ vào bia còn lưu lại tại đình cho biết niên đại xây đình vào năm Minh Mạng thứ 7(1826) trên cơ sở ngôi đình bằng gỗ lá, được sắc phong vào năm Tự Đức thứ 5(1851). Thềm và móng được cấu trúc bằng đá xanh, bên trên xây gạch. Đình gồm tất cả 10 gian: 6 gian chính dính liền với mái và 4 gian phụ bố trí theo lối chữ “Đinh”. Đình chính gồm võ ca, viên đường, thính đường, chánh đường và hậu đường. Cột đình bằng gỗ lim, đường kính 40cm, mái lợp ngói vảy cá.
Đình Phú Lễ
Do chiến tranh và thời gian, các công trình kiến trúc và các hiện vật bài trí bên trong (hương án, cuốn thư, hoành phi, bình phong, bao lam, đồ lễ bộ…) đã bị xuống cấp và hư hỏng nhiều. Tuy nhiên, những phần cơ bản về kiến trúc vẫn còn nguyên, không bị bom đạn tàn phá, đặc biệt những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc gỗ sơn son, thếp vàng còn lưu giữ được đến hôm nay, đã nói lên rằng đình Phú Lễ là đình có quy mô lớn và đẹp nhất của các làng quê ven biển Bến Tre. Nét đẹp của đình một phần còn do cảnh quan thiên nhiên bên ngoài. Khuôn viên của đình khá rộng, trải ra trên khu đất giồng khô ráo, với hàng trăm cây cổ thụ toả bóng.
Hàng năm, hội cúng đình – còn gọi là lễ kỳ yên tổ chức vào rằm tháng 3(âl). Vì là làng lớn, đông dân, nên trước đây mỗi năm trong kỳ tế xuân đều có rước đoàn hát bội về biểu diễn nhiều đêm liền. Lễ tế thu là lễ Cầu bông.
Đình Phú Lễ được Bộ Văn hoá - Thông tin ra quyết định công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 7-1-1993.
Từ thành phố Bến Tre, theo đường Nguyễn Đình Chiểu đến ngã ba Phú Hưng (khoảng 2,5km), tiếp tục đi thẳng đến ngã ba vào ấp Phú Hào (khoảng 200m) rẽ trái vào khoảng 600m là đến di tích. Di tích nằm bên trái.
Đình Phú Tự nằm ở ấp Phú Hào, xã Phú Hưng, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. Đình thờ Thành hoàng bổn cảnh được phong sắc vào năm 1910 (Khải Định nhị niên). Đình có tổng diện tích đất là 9.695m2, được xây theo kiểu chữ Tam, các gian đình cất theo kiểu tứ trụ (4 cột cái giữa các gian làm cao lên), mái liền kề nhau, lợp ngói âm dương, nền lót gạch tàu… Cột, kèo làm bằng gỗ căm xe và gõ đỏ. Đình chính gồm 3 gian: võ ca, nhà thính và nhà chánh. Các bàn thờ, hương án của đình Phú Tự được làm bằng gỗ quý cẩn ốc xà cừ. Hoành phi, liễn đối, câu đối,… ở đình Phú Tự đều viết bằng chữ Hán và sơn son thếp vàng.
Tại sân đình Phú Tự có một cây to, thân sần sùi, cành lá sum suê có lẽ đã hàng trăm năm tuổi tên gọi là Bạch Mai hay Thần mai. Ngoài ra còn một tên khác nữa là Nam Mai, một giống mai mà tương truyền do ông Mạc Cửu (người có công khai phá đất Hà Tiên) mang từ quê hương của mình ở tận miền Nam Trung Quốc sang trồng ở Gia Định (nên được gọi là Nam Mai).
Hàng năm, ngoài các lễ cúng Kỳ yên, Thượng điền, Hạ điền, Chạp miếu; đình Phú Tự còn là nơi nhân dân tổ chức các lễ hội văn hóa như Tết Nguyên tiêu, Ngày thơ Việt Nam, Giỗ Tổ Hùng Vương, thương binh liệt sĩ,…
Bên cạnh đó, hiện nay đình Phú Tự còn là tụ điểm sinh hoạt giao lưu văn hóa của giới nghệ sĩ trong và ngoài tỉnh.
Với những ý nghĩa đó, ngày 10 tháng 01 năm 2008, UBND tỉnh Bến Tre ban hành Quyết định số 75/QĐ-UBND công nhận đình Phú Tự và cổ thụ Bạch Mai (ấp Phú Hào, xã Phú Hưng, thành phố Bến Tre) là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh về kiến trúc nghệ thuật và tín ngưỡng dân gian.
Đình Tân Hưng hiện tọa lạc tại xã Châu Hưng, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Từ thành phố Bến Tre, theo Quốc lộ 60 đến ngã tư huyện Châu Thành (8km), theo đường tỉnh 883, qua cầu An Hóa, đến ngã ba xã Châu Hưng (khoảng 14km), rẽ phải khoảng 2,5km là đến đình, mộ Ông Huỳnh Văn Thiệu cách đình khoảng 1km về hướng Tây.
Đình được xây dựng trên mảnh đất rộng 2.100m2 gồm 3 ngôi nhà ba gian, hai chái liền nhau theo kiểu “sắp đọi”, mái lợp ngói âm dương. Tất cả vì kèo, xiên, trính, bao lam, thành vọng, hoành phi, câu đối, long trụ, khánh thờ đều được làm bằng gỗ quý và chạm khắc hoa văn phong phú như chim, hoa lan, hoa cúc, trúc, lưỡng long tranh châu, kỳ lân,… đều được sơn son thếp vàng.
Vào khoảng đầu thế kỷ XIX, ông Huỳnh Văn Thiệu (ông tổ họ Huỳnh là Huỳnh Văn Sách bỏ xứ Huế vào Gia Định và định cư ở đất này) đứng ra tập hợp cư dân để khai phá đất đai và chống thú dữ. Dần dần đời sống ổn định, mọi người sống quây quần bên nhau thành thôn xóm.
Đình Tân Hưng (Ảnh:baodongkhoi.vn)
Ông từ chối ra làm việc làng mà tập hợp nhân dân, xây dựng lực lượng theo phong trào khởi nghĩa của Trương Định. Khi Trương Định hy sinh, ông về quê chiêu mộ nghĩa quân khởi nghĩa chống Pháp. Bọn tay sai báo cho Pháp bắt ông, dùng mọi cách uy hiếp nhưng ông vẫn giữ vững khí tiết. Cuối cùng chúng chặt đầu ông tại Bàu Sấu ấp Hưng Nhơn, xã Châu Hưng. Đến năm 1905, nhân dân làng Tân Hưng cùng đóng góp xây dựng ngôi đình làng (đình Tân Hưng ngày nay), phong ông Hùynh Văn Thiệu làm Thành Hoàng bổn cảnh.
Trải qua hai cuộc kháng chiến, nhân dân Tân Hưng đã có những người con ưu tú theo Đảng, góp phần giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước nổi bật có ông Huỳnh Văn Phát tức Huỳnh Tấn Phát (cháu cố của ông Huỳnh Văn Thiệu), nguyên Chủ tịch Chánh phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam.
Khi ông mất, dân làng Tân Hưng đã rước ảnh ông về thờ tại đình Tân Hưng. Những hình ảnh, tư liệu, hiện vật liên quan đến cuộc đời hoạt động cách mạng của ông cũng được trưng bày trang trọng tại đây.
Với ý nghĩa đó, đình Tân Hưng đã được UBND tỉnh Bến Tre ra quyết định công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh về lưu niệm danh nhân bằng Quyết định số 1698/QĐ-UB ngày 12 tháng 4 năm 2001.
Ngày 1-1-1960, đồng chí Nguyễn Thị Định, Phó bí thư Tỉnh ủy Bến Tre đi dự hội nghị của Khu ủy khu 8 để tiếp thu Nghị quyết 15 của Trung ương về đến Mỏ Cày. - Đêm 2-1, hội nghị cán bộ lãnh đạo tỉnh được triệu tập tại một địa điểm ở Mỏ Cày, để truyền đạt lại tinh thần Nghị quyết 15 và bàn kế hoạch phát động tuần lễ nổi dậy đồng loạt, từ 17-1-1960 đến 25-1-1960, lấy 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh làm điểm đột phá.
Những cột mốc chính của quá trình diễn biến cuộc Đồng Khởi:
- Ngày 1-1-1960, đồng chí Nguyễn Thị Định, Phó bí thư Tỉnh ủy Bến Tre đi dự hội nghị của Khu ủy khu 8 để tiếp thu Nghị quyết 15 của Trung ương về đến Mỏ Cày.
- Đêm 2-1, hội nghị cán bộ lãnh đạo tỉnh được triệu tập tại một địa điểm ở Mỏ Cày, để truyền đạt lại tinh thần Nghị quyết 15 và bàn kế hoạch phát động tuần lễ nổi dậy đồng loạt, từ 17-1-1960 đến 25-1-1960, lấy 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh làm điểm đột phá.
- Ngày 11-1-1960, Huyện ủy Mỏ Cày họp với cấp ủy xã Định Thủy, bàn kế hoạch thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy.
Đúng ngày 17-1-1960, cuộc nổi dậy bùng nổ và đã giành thắng lợi đúng như dự kiến.
- Ngày 20-1-1960, trung đội vũ trang đầu tiên của tỉnh được thành lập, mang tên phiên hiệu 264.
Nhà lưu niệm Đồng Khởi
Thắng lợi cuộc Đồng khởi tại vùng điểm đã mở màn, cổ vũ cho phong trào nổi dậy trong toàn tỉnh, sau đó lan ra trong toàn miền. Đến ngày giải phóng (30-4-1975), những di tích diệt ác ôn, hạ đồn địch trong cuộc Đồng Khởi đã bị mai một đi nhiều. Để bảo tồn những di tích và hình ảnh, tư liệu về sự kiện lịch sử to lớn này, nhằm giáo dục truyền thống yêu nước bất khuất của người dân, và để nâng cao lòng tự hào về những chiến tích đã đạt được, lãnh đạo tỉnh Bến Tre chủ trương xây dựng tại xã Định Thủy một “Nhà truyền thống Đồng khởi”. Khu di tích này được thiết lập trên một diện tích 5.000 m2, gồm nhà bảo tàng một trệt, một lầu, có diện tích sử dụng 500 m2. Trên nóc nhà là một ngọn lửa được cách điệu bằng bê tông cốt thép cao 12 m, màu đỏ - biểu tượng của ngọn lửa Đồng khởi cháy sáng mãi trên xứ Dừa. Bên trong nhà là những gian trưng bày những hiện vật, nhân vật, hình ảnh, biểu đồ, những vũ khí tự tạo để đánh địch v.v…
Chung quanh ngôi nhà là những thảm cỏ xanh, sân rộng, những bồn hoa và cây cảnh, làm tăng thêm vẻ đẹp của khu di tích.
Từ thành phố Bến Tre đi qua cầu Hàm Luông theo quốc lộ 60, đến thị trấn Mỏ Cày, rẽ về 3 xã nói trên bằng đường ô-tô là đến khu di tích. Hoặc có thể từ thành phố Bến Tre, vượt sông Hàm Luông theo đường kênh đến tận trung tâm của cái nôi Đồng khởi.
Di tích Đồng khởi đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch ra quyết định số 43-VH/QĐ công nhận là di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia ngày 7-1-1993.
LÊ DUẨN - TỔNG BÍ THƯ BCHTƯĐCS VIỆT NAM
“Cuối năm 1959 tại nhiều nơi ở Nam Bộ, quần chúng đã vùng lên diệt ác, phá kìm, khiến cho bộ máy tề ngụy của hàng trăm thôn, xã phải tan vỡ. Đặc biệt đêm 17-1-1960, dưới sự chỉ đạo của Ðảng bộ Bến Tre, nhân dân huyện Mỏ Cày đã nổi dậy khởi nghĩa đồng loạt mở đầu cho một cao trào mới. Từ đó, làn sóng “Đồng khởi” như nước vỡ bờ lan ra toàn tỉnh Bến Tre và khắp các tỉnh Nam Bộ, Tây Nguyên và Trung Trung Bộ"(1).
“... Những cuộc đấu tranh cách mạng ấy thực chất là cao trào khởi nghĩa của quần chúng, bao gồm những cuộc khởi nghĩa từng phần, để giành thế mạnh về chính trị, xây dựng một hình thức chính quyền cách mạng ở thôn xã, hình thức bước đầu lực lượng vũ trang của nhân dân"(2).
* Đại hội Anh hùng Chiến sĩ thi đua toàn miền Nam do TƯCMN và Quân ủy miền chủ trì (1968) có đại biểu các tỉnh, thành và Bộ Tư lệnh các quân khu 5, 6, 7, 8, 9 và đặc khu Sài Gòn - Gia Định về dự đã nhất trí tuyên dương 3 tỉnh đạt những thành tích xuất sắc trong sự nghiệp chống Mỹ (giai đoạn 1954 - 1968) với các danh hiệu sau đây:
1 - Tỉnh Bến Tre: “Anh dũng Đồng khởi, thắng Mỹ diệt ngụy”.
2 - Tỉnh Long An: "Trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc".
3 - Tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng: "Trung dũng kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”.
ĐẠI TƯỚNG HOÀNG VĂN THÁI (Nguyên Tư lệnh B2):
Trong bài phát biểu ở Hội nghị Tổng kết cuộc KCCM cứu nước của nhân dân Bến Tre, ngày 17-7-1982 đã kết luận:
"Phong trào Đồng khởi ở Bến Tre đã mở đầu cho cuộc tấn công và nổi dậy lần thứ nhất của cách mạng miền Nam, mở đầu cho cuộc khủng hoảng triền miên của chính quyền Mỹ, Diệm. Rõ ràng, phong trào Đồng khởi ở Bến Tre đã đi vào lịch sử như một ngọn cờ đầu, nó đã có một vị trí xứng đáng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam và xứng đáng được gọi là QUÊ HƯƠNG ĐỒNG KHỞI với tất cả nội dung và tính chất của nó".
ĐẠI TƯỚNG ĐOÀN KHUÊ, BỘ TRƯỞNG BỘ QUỐC PHÒNG:
Nhân kỷ niệm 35 năm chiến thắng ấp Bắc, tỉnh Mỹ Tho, nay thuộc tỉnh Tiền Giang (2.1.1963 - 2.1.1998), Đại tướng đã phát biểu:
"Mọi sự việc diễn ra trong quá trình lịch sử đều có những cột mốc phát triển của nó. Ðồng khởi Bến Tre tạo ra chiến thắng Ấp Bắc; chiến thắng Ấp Bắc tạo ra Bình Giã (Bà Rịa - Vũng Tàu), Ba Gia (Quảng Ngãi), Núi Thành (Quảng Nam), Vạn Tường (Quảng Ngãi)".
THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT:
"Chiến công chống chánh quyền ngụy tay sai của Mỹ, tiêu biểu khởi đầu là phong trào Đồng khởi của nhân dân và các chiến sĩ kiên trung của Bến Tre, đặc biệt là các chị em được mệnh danh là "đội quân tóc dài", những người đã anh dũng vùng lên, cùng nhau nổi dậy thành một phong trào, đấu tranh chính trị kết hợp với bạo lực vũ trang, phá thế kìm kẹp, làm thay đổi cục diện trên địa bàn lúc bấy giờ. Trong lúc đó ở miền Nam nhiều nơi cũng có phong trào tương tự, nhưng về quy mô thì chưa có nơi nào như ở Bến Tre (ít nhất cũng riêng Nam Bộ)
Sự Ðồng khởi ở Bến Tre đã có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ phong trào nhân dân nổi dậy đấu tranh của nhiều địa phương khác ở Nam Bộ.Tôi có vinh dự lớn lúc đó là "người trong cuộc và có điều kiện theo dõi bước phát triển quan trọng này trong quá trình kháng chiến của Bến Tre đã được chứng minh trong nhiều văn kiện của Đảng và những tác phẩm văn học nghệ thuật ghi nhận là "quê hương Đồng khởi”, Đảng bộ và nhân dân Bến Tre có quyền tự hào về điều này"(3).
CHỦ TỊCH TRẦN ĐỨC LƯƠNG:
Trong thư biểu dương bà Nguyễn Thị Ðấu - Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở xã Châu Bình, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày Đồng khởi Bến Tre ở đoạn kết có câu: “Kính chúc mẹ, chúc Đảng bộ và nhân dân Bến Tre tiếp tục phấn đấu và phát huy truyền thống "Quê hương Đồng khởi” trong thời kỳ đổi mới”.
Chú thích:
(1) Lê Duẩn, Thư vào Nam, Nxb Sự thật, H., 1985, tr.397
(2) Lê Duẩn, Thư gửi Xứ ủy Nam Bộ, ngày 28-2-1961, Sđd, tr.40
(3) Trích thư của đồng chí Võ Văn Kiệt gởi cho Thường vụ Tỉnh ủy Bến Tre, ngày 16-5-1995, ký tên Sáu Dân (tên thường gọi của đồng chí Võ Văn Kiệt từ thời KCCM).
Ngôi nhà ông Nguyễn Văn Trác (thường gọi là Mười Trác) ở xã Hưng Lễ, huyện Giồng Trôm, là nơi Bí thư Xứ ủy Nam Bộ Lê Duẩn đã ở và làm việc từ tháng 11-1955 đến tháng 3-1956, để chỉ đạo phong trào cách mạng miền Nam và tổng hợp tình hình và dự thảo Đề cương cách mạng miền Nam. Nhà gồm 3 gian, hai chái bằng gỗ, xung quanh là vườn dừa, có lối thoát thuận tiện khi gặp biến cố. Đồng chí Lê Duẩn hàng ngày làm việc, ăn ở ngay trong căn buồng, có kê chiếc giường đôi, cạnh đó là một tủ đứng, bên trong bố trí thông với một hầm bí mật đào dưới đất. Việc canh gác theo dõi người lạ, địch bên ngoài đều do vợ chồng ông bà Nguyễn Văn Trác đảm nhiệm.
Mô hình ngôi nhà ông Nguyễn Văn Trác
Đồng chí Lê Duẩn sống và làm việc ở đây gần 5 tháng, khi nhận thấy có dấu hiệu nghi ngờ bọn mật vụ có thể đánh hơi biết được, nên đã chuyển sang một cơ sở khác bí mật ở xã Tân Hào, huyện Giồng Trôm, sau đó chuyển tiếp sang một số gia đình cơ sở khác ở xã Bình Khánh, huyện Mỏ Cày. Ngày 5-7-1956, đồng chí Lê Duẩn rời Bến Tre lên thành phố Sài Gòn.
Sau ngày miền Nam giải phóng (30-4-1975), đồng chí Lê Duẩn có về thăm lại ngôi nhà xưa, cùng những đồng bào, đồng chí cơ sở đã nuôi dưỡng, cưu mang và bảo vệ mình trong những ngày cách mạng miền Nam bị địch đánh phá khốc liệt. Ngôi nhà ngày xưa đã bị chiến tranh tàn phá, chỉ còn lại chiếc tủ đứng bẳng gỗ làm hầm bí mật, hiện đang được trưng bày ở nhà bảo tàng tỉnh Bến Tre. Đồng chí Lê Duẩn đã chỉ thị cho chính quyền tỉnh giúp đỡ gia đình ông Mười Trác xây dựng lại ngôi nhà, để ghi dấu một di tích của thời đấu tranh cách mạng đầy khó khăn, gian khổ.
Ngôi nhà ông Nguyễn Văn Trác đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch ra quyết định số 985-QĐ/VH công nhận là di tích lịch sử cách mạng quốc gia ngày 7-5-1997.
Với không gian sông nước yên bình, khuôn viên rộng rãi, thoáng mát kết hợp những hoạt động trải nghiệm thú vị tại vùng quê ven biển. Đất Cù Lao là điểm đến thích hợp cho những buổi thư giãn cuối tuần cùng gia đình, bạn bè, hay du khách có dịp ghé thăm Trà Vinh. Đến farm, du khách có thể thưởng thức các món ăn đặc sản vùng biển với nguồn nguyên liệu sạch, chất lượng từ ghe đánh bắt trên biển và nguyên liệu nuôi tại farm như: Cá Mú, Hàu, Sò Huyết, Cua,… Tham gia các hoạt động miễn phí: Đi cano từ Cảng cá Láng Chim đến Farm, câu cá, chèo xuồng, tham quan vuông nuôi hải sản, vườn trái cây nhà trồng,…
Địa chỉ: Cảng Cá Láng Chim, phường 2, Thị xã Duyên Hải, Trà Vinh (nay là phường Trường Long Hòa, tỉnh Vĩnh Long).
Với vị trí chỉ cách biển Ba Động chỉ khoảng 7km, Đất cù lao là một điểm dừng chân lý tưởng cho du khách.
Cồn Ông là mô hình du lịch nông nghiệp của xã Dân Thành, thị xã Duyên Hải (nay là Phường Duyên Hải, tỉnh Vĩnh Long). Mô hình hiện có 9 hộ dân tham gia với các sản phẩm bánh dân gian và các loại nông sản.
Đến đây, du khách sẽ được trải nghiệm các hoạt động sản xuất nông nghiệp cùng người dân, chăm sóc các loại cây, hoa màu và được tham gia thu hoạch nông sản khi đến mùa. Ấp Cồn Ông có diện tích tự nhiên trên 1.000 ha, toàn ấp có 444 hộ với 1.926 nhân khẩu. Có vị trí địa lý giáp ấp Láng Cháo ở hướng Đông, hướng Tây giáp sông Long Toàn, hướng Nam giáp Hương lộ 81 và hướng Bắc giáp phường Trường Long Hòa. Người dân nơi đây sinh sống chủ yếu bằng nghề nuôi trồng thủy sản và sản xuất nông nghiệp.
Đến với du lịch nông nghiệp Cồn Ông, du khách có thể trải nghiệm nhiều hoạt động thú vị như gieo hạt, trồng rau, được khám phá ẩm thực miền quê hay hòa mình vào nếp sinh hoạt của người dân hiếu khách nơi đây.
Cồn Chim có diện tích tự nhiên 60 ha, nằm giữa sông Cổ Chiên, trong đó diện tích đất nông nghiệp là 34 ha và có 220 người dân sinh sống. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh Trà Vinh (nay là tỉnh Vĩnh Long) về định hướng phát triển đưa ngành du lịch trở thành một trong những ngành kinh tế trọng tâm của tỉnh, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các chuyên gia đã khảo sát đánh giá Cồn Chim có nhiều tiềm năng để xây dựng thành điểm du lịch.
Điểm du lịch cộng đồng Cồn Chim xây dựng theo quy luật “thuận thiên”, người dân làm du lịch gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường, nuôi trồng và sản xuất sạch theo mô hình “con tôm ôm cây lúa”.
Du lịch cộng đồng Cồn Chim phù hợp với mọi người, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống và hưởng thụ của du khách. Du khách đến với Cồn Chim được ngắm nhìn thỏa thích phong cảnh sông nước của miền quê cùng những cánh rừng bần cao xanh ngút trời. Du khách được trải nghiệm các hoạt động câu cua, đặt lú tôm cá… và được thưởng thức các món ngon hải sản tươi sống, cùng những món ăn dân dã do chính các đầu bếp giỏi nghề tại địa phương.
Cách di chuyển đến Cồn Chim: đi Phà Phước Vinh (tên gọi khác là Phà Bà Trầm) cách phường Trà Vinh 10km, sau khi qua phà Phước Vinh rẻ phải đi thêm khoản 1,5km nữa sẽ có đường rẻ phải vào phà qua Cồn Chim.
Cách di chuyển thông qua đơn vị du lịch sẽ có phà đi thẳng từ Phước Vinh qua Cồn Chim và tham quan toàn bộ dịch vụ tại Cồn Chim.
Các hoạt động chính tại Cồn Chim:
Ngoài ra du khách còn được trải nghiệm hoạt động dở lờ, lợp bắt cá, tôm. Cùng tham gia làm các sản phẩm từ lá dừa, các trò chơi dân gian: Chọi lon, bắn bi, kéo mo cau, banh đũa, … khơi gợi lại ký ức tuổi thơ.
Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, người dân địa phương vẫn quen gọi là Đền thờ Bác Hồ, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng khái quát thành biểu tượng “Công trình của Trái tim” bởi ý nghĩa thiêng liêng của việc hình thành, quá trình chiến đấu bảo vệ ngoan cường và giá trị tinh thần của ngôi đền trong đời sống tinh thần của Đảng bộ, quân dân tỉnh Trà Vinh (nay là tỉnh Vĩnh Long).
Ngôi đền tọa lạc tại ấp Vĩnh Hội, xã Long Đức, thành phố Trà Vinh (nay là Phường Long Đức, tỉnh Vĩnh Long).
Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh tỉnh Trà Vinh đã được Bộ Văn hóa Thông tin, nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia vào năm 1989.
Đền thờ chủ tịch Hồ Chí Minh trong khuôn viên khu di tích.
Khu di tích đền thờ Bác Hồ rộng 5,4 ha với các hạng mục chính như: Đền thờ Bác Hồ, nhà trưng bày thân thế sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh, khuôn viên cây xanh, ao cá, khu vui chơi cắm trại…và đặc biệt là mô hình Nhà sàn Bác Hồ được thiết kế, in sao và lắp khoa học với tỉ lệ 97% theo nguyên bản nhà sàn Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch ở thủ đô Hà Nội.
Ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh vô vàn kính yêu của chúng ta vĩnh viễn đi xa. Đây là nỗi đau, sự mất mát to lớn không gì bù đắp được của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam. Tin dữ này đã làm bàng hoàng người dân Trà Vinh, người dân Long Đức vốn đặt trọn niềm tin vào Người thắp lửa soi đường và lãnh đạo nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Bất chấp sự cấm đoán gắt gao của địch, nhiều gia đình ở Long Đức, ở Trà Vinh lập bàn thờ ngày đêm hương khói cho Người. Ý nguyện của nhân dân Long Đức về một nơi khang trang để cộng đồng làng xã bày tỏ lòng thành kính biết ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh được đề đạt lên lãnh đạo xã Long Đức, lãnh đạo thị xã Trà Vinh. Đầu năm 1970, Thị xã ủy Trà Vinh thảo luận, thống nhất và được Tỉnh ủy Trà Vinh chấp thuận chủ trương xây dựng Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày khởi công là 10/3/1970 và dự kiến khánh thành vào dịp sinh nhật Bác lần thứ 80. Địa điểm được chọn là vuông giồng cao ráo thuộc ấp Vĩnh Hội – trung tâm của cả xã, nơi trước đây từng là ngôi đình thờ Thần Thành hoàng bổn cảnh của địa phương. Địa điểm này cách tiểu khu quân sự địch hơn 4 km, cách căn cứ quân sự Mỹ ở Vàm Trà Vinh hơn 2 km, cách sông Cổ Chiên mà tàu chiến địch tuần tra bắn phá không quá 1.500 m, cách đồn địch gần nhất chỉ 400 m… Nghĩa là, khi xây dựng ngôi Đền, Đảng bộ và quân dân Long Đức chấp nhận mọi sự thách thức từ phía kẻ thù.
Khi Đảng bộ, quân dân Long Đức triển khai việc xây dựng ngôi Đền cũng là lúc cao điểm lấn chiếm, bình định của Mỹ ngụy, mà các xã vùng ven tỉnh lỵ như Long Đức là trọng điểm. Địch tăng cường đánh phá bằng bộ binh, biệt kích, máy bay, tàu chiến, pháo binh… vào các ấp thuộc xã Long Đức. Tuy có đội bảo vệ sẵn sàng chiến đấu nhưng để đảm bảo an toàn, việc thi công chủ yếu vào ban đêm. Khi bộ khung hoàn thành chuẩn bị dựng lên thì bị trận pháo địch gây hư hại, phải làm lại từ đầu… Họa sĩ Phong Ba được Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy cử về vẽ bức chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng chất liệu sơn dầu, có kích thước 0,78 x 1,00 m từ bức ảnh trắng đen mà một cán bộ tập kết mang về.
Đến ngày 26/01/1971, tức chiều Ba mươi Tết Tân Hợi, ngôi đền được khánh thành trước sự chứng kiến của đại diện Tỉnh ủy, Thị xã ủy Trà Vinh cùng một số người dân địa phương. Những ngày sau đó, lấy cớ về quê ăn tết, lần lượt nhiều người dân Long Đức, người dân Trà Vinh đến thắp hương, kính viếng Người.
Mô hình Nhà sàn Bác Hồ
Phát hiện sự tồn tại của ngôi Đền, địch điên cuồng tổ chức nhiều trận càn quét, đánh phá Long Đức mà mục tiêu cuối cùng là hủy diệt ngôi Đền. Ngày 10/3/1971, đích thân tên trung tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Vĩnh Bình (tên gọi tỉnh Trà Vinh của chính quyền Sài Gòn) ra lệnh mở cuộc hành quân càn quét qui mô lớn, có sự yểm trợ của máy bay trực thăng, xe bọc thép M 113, pháo binh và tàu chiến. Du kích Long Đức cùng du kích ấp Vĩnh Hội đã kiên cường chiến đấu nhưng với sức mạnh áp đảo, địch dùng súng phun lửa đốt cháy một khoảng lũy tre, rồi cho bọn bộ binh luồn vào đốt cháy ngôi Đền. Riêng bức chân dung Bác Hồ, chúng không dám đốt mà cho người khiêng về dinh Tỉnh trưởng. Ngày hôm sau, hàng trăm quần chúng Long Đức kéo vào cùng quần chúng nội ô đấu tranh đòi địch phải trả bức chân dung. Trước đòi hỏi chính đáng của người dân, tên Tỉnh trưởng buộc phải hứa trả lại nhưng sau đó nuốt lời, giấu mất bức chân dung lịch sử ấy.
Việc xây dựng lại và bảo vệ ngôi Đền được Thị xã ủy, Thị đội Trà Vinh và Đảng ủy, lực lượng vũ trang và nhân dân Long Đức triển khai một cách chặt chẽ. Chiều ngày 14/02/1972, nhằm ngày Ba mươi Tết Nhâm Tuất, Đền thờ Bác Hồ được khánh thành lần thứ hai trong niềm hân hoan của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Long Đức. Sự tồn tại của ngôi Đền như cái gai chọc vào mắt địch nên chúng thường xuyên mở nhiều cuộc càn quét, đánh phá. Ngày 03/10/1972, địch cho máy bay đến bắn phá hủy diệt, ngôi Đền bị bốc cháy nhưng tổ bảo vệ và nhân dân Long Đức đã kịp thời dập lửa, bảo vệ được ngôi Đền.
Trong gần 5 năm xây dựng và bảo vệ Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng vũ trang và nhân dân Long Đức, thị xã Trà Vinh đã phối hợp nhuần nhuyễn ba mũi giáp công, bẻ gãy hàng chục trận càn quét, hàng trăm trận đánh phá bằng máy bay, pháo binh, tàu chiến của địch, loại ra khỏi vòng chiến đấu hơn 300 tên địch. Hơn 20 cán bộ, chiến sĩ và quần chúng đã anh dũng hy sinh cho sự tồn tại của ngôi Đền, trong đó có nhiều gương hy sinh anh dũng như Nguyễn Văn Lượm, Nguyễn Văn Trị… Đội nữ du kích Long Đức, dưới sự chỉ huy của đồng chí Phan Thị Nhờ đã sát cánh cùng đồng đội nam, dũng cảm chiến đấu, lập nhiều chiến công trong quá trình bảo vệ Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Sự tồn tại hiên ngang của Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho bọn chỉ huy tiểu khu Vĩnh Bình vô cùng tức tối. Chúng tăng cường các cuộc càn quét, bắn phá khiến mật độ chiến tranh tại Long Đức ngày thêm ác liệt. Đến ngày 29/4/1975, trong cơn giãy chết cuối cùng, bọn chỉ huy tiểu khu Vĩnh Bình còn điên cuồng cho máy bay bắn phá, gây thiệt hại nặng một phần ngôi Đền. Với lòng kính yêu, biết ơn Bác vô hạn, Đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân Long Đức sẵn sàng chấp nhận mọi mất mát, hy sinh, kiên cường chiến đấu bảo vệ ngôi Đền. Có thể nói, chính ngôi Đền đã tạo ra sức mạnh kỳ diệu để Đảng bộ, quân dân Long Đức; Đảng bộ, quân dân thị xã Trà Vinh; Đảng bộ, quân dân tỉnh Trà Vinh trong chiến đấu, tiến tới giành thắng lợi cuối cùng giải phóng thị xã Trà Vinh, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Mỗi lần vào chiến dịch, các đơn vị vũ trang Trà Vinh đều tập trung về đây, tuyên thệ trước anh linh Bác, nguyện chiến đấu đến cùng cho nền độc lập của Tổ quốc.
Đền thờ Bác Hồ đã trở thành niềm tự hào, là biểu trưng của tấm lòng người dân Trà Vinh đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Sau ngày thống nhất đất nước, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Trà Vinh đã nhiều lần trùng tu, tôn tạo cũng như xây dựng mới các hạng mục theo quy hoạch của một khu di tích lịch sử – văn hóa gắn với chức năng du lịch. Toàn bộ diện tích khu di tích là gần 04 ha, bao gồm các công trình chính là Vỏ bao che, Nhà Trưng bày, công viên…
Nép mình dưới những lũy tre ngày nào che chở ngôi Đền, Vỏ bao che được thiết kế theo dạng một đóa sen cách điệu màu hồng tươi. Bên trong, ngôi Đền được phục chế lại theo đúng nguyên trạng khiêm tốn, đơn sơ, với kích thước 4 x 4 m bằng khung gỗ, mái lợp lá, vách tôn. Tại đây, mỗi dịp lễ tết, nhiều đoàn đại biểu đại diện lãnh đạo tỉnh, lực lượng vũ trang và đồng bào các giới trong tỉnh Trà Vinh đến đặt vòng hoa, thắp nén hương thơm, thành kính báo cáo cùng Bác những thành tựu mới nhất của mình.
Công viên với hồ sen khong khuôn viên khu di tích.
Nhà Trưng bày được xây dựng theo kiến trúc truyền thống dân tộc. Trong đó, nhiều hiện vật, hình ảnh, tài liệu giúp người tham quan hiểu được một cách khái quát về cuộc đời hoạt động của Bác; truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất trong kháng chiến và những thành tựu trong công cuộc đổi mới của Đảng bộ, nhân dân tỉnh Trà Vinh; quá trình xây dựng và chiến đấu bảo vệ ngôi Đền.
Công viên với hồ sen lớn hài hòa cùng hệ thống cây xanh, hoa kiểng quanh năm khoe sắc tạo ra khu vui chơi, giải trí đa dạng, hấp dẫn. Trong đó, những tán còng cổ thụ và lũy tre bao quanh cùng hệ thống hầm hào, công sự là chứng nhân của quá trình xây dựng, chiến đấu bảo vệ ngôi Đền được phục hồi và bảo quản một cách nghiêm túc, chu đáo.
Đặc biệt, năm 2012, theo quy hoạch của hệ thống Bảo tàng Hồ Chí Minh trên cả nước đã được Ban Bí thư Trung ương Đảng phê chuẩn, phiên bản Nhà sàn Bác Hồ với tỷ lệ 97% so với nguyên bản đã được dựng lên trong khuôn viên Đền thờ. Đây là một hiện vật quý khẳng định giá trị lịch sử của khu di tích Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh Trà Vinh trong hệ thống Bảo tàng Hồ Chí Minh, vừa là điểm nhấn đặc biệt để du khách và quần chúng nhân dân các tỉnh Nam bộ thuận tiện hơn trong việc tham quan, nghiên cứu, tìm hiểu thân thế, sự nghiệp của Người.
Biển Ba Động là danh thắng và là khu du lịch nổi tiếng thuộc xã Trường Long Hòa, thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh (nay là phường Trường Long Hòa, tỉnh Vĩnh Long). Khu du lịch này có vị trí nằm giữa hai cửa biển Cung Hầu (sông Tiền), Định An (sông Hậu), nhìn chính diện ra biển Đông.
Vùng biển Đông ven bờ các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long là vùng biển phù sa do nhiều cửa sông lớn nhỏ đổ ra nên phần lớn là bãi bùn, nước không trong. Trong đó, biển Ba Động là khu vực hiếm hoi ở miền Tây Nam bộ được thiên nhiên hào phóng ban tặng cho một bãi cát dài hơn 10 km từ ấp Nhà Mát tới ấp Cồn Trứng. Do độ dốc thoai thoải, khi nước thủy triều xuống, bãi cát phơi ra hàng trăm mét, từ bờ xuống tới mép nước.
Cũng do nằm trong khu vực biển phù sa nên bãi cát Ba Động không trắng muốt hay vàng óng ả, nước biển Ba Động cũng không thể trong xanh như với các bãi biển Nha Trang hay Vũng Tàu. Tuy nhiên, dọc bờ biển Đông, từ Gò Công tới Cà Mau, Ba Động có bãi cát đẹp, nước biển khá trong, nhất là vào những tháng sau Tết Nguyên đán, sóng yên biển lặng, hình thành khu du lịch biển được nhiều người ưa chuộng.
Sớm nhận ra giá trị của bãi biển Ba Động, từ đầu thế kỷ XX, nhà cầm quyền thực dân Pháp đã xây dựng ở đây khu nghỉ mát và gần đó là một sân golf mini (lúc đó sân golf gọi là sân cù, đánh golf gọi là đánh cù) dành cho các quan chức, giới thượng lưu trong tỉnh và các tỉnh lận cận về nghỉ dưỡng dịp cuối tuần. Qua giai đoạn chiến tranh ác liệt, khu nghỉ mát và sân golf ấy không còn nhưng đã để lại địa danh ấp Nhà Mát (thuộc xã Trường Long Hòa, thị xã Duyên Hải) và ấp Cồn Cù (thuộc xã Đông Hải, huyện Duyên Hải). Sau khi tỉnh Trà Vinh được tái lập (1992), Nhà nước tập trung nguồn kinh phí đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng như giao thông, điện lưới quốc gia, viễn thông, rừng phòng hộ phi lao, bờ kè chống sạt lở… tạo điều kiện đánh thức tiềm năng du lịch biển Ba Động.
Ngày nay, một số doanh nghiệp trong, ngoài tỉnh đã và đang đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ du lịch tiện ích như khách sạn, nhà hàng, khu nghỉ dưỡng, bờ kè chống sạt lở, quy hoạch và cắm phao an toàn bãi tắm, quầy vật phẩm lưu niệm… Từ đó, khách du lịch và các đoàn tham quan từ các tỉnh miền Tây Nam bộ, khách nước ngoài đến khu du lịch Biển Ba Động ngày càng đông hơn.
Đến với khu du lịch Biển Ba Động, du khách nên nghỉ lại qua đêm để có điều kiện ngắm ánh bình minh hoặc ánh hoàng hôn trên biển. Sau đó, hòa vào đoàn người đang thỏa thích vẫy vùng trong làn nước biển mát lạnh hay cưỡi mô tô nước lướt trên ngọn sóng một cách an toàn, không lo bị sóng biển cuốn đi như nhiều bãi biển khác. Khi thấm mệt, bạn cùng gia đình có thể lựa chọn góc thuận tiện trong nhà hàng hoặc dãy ghế bố dọc theo bờ kè nhìn ra mặt biển khơi xa tít tắp, nơi có những đoàn thuyền đánh cá như những chấm đen nho nhỏ di động phía chân trời và tận hưởng những làn gió biển thổi vào mát rượi. Có thời gian, du khách thả bộ dọc theo những lối mòn quanh co, khúc khuỷu theo chân các động cát, xuyên qua và hòa vào những hàng phi lao uốn lượn theo chiều gió mà quên đi những mệt mỏi, lo toan của cuộc sống bộn bề thường nhật.
Đến với Biển Ba Động, dù là mùa nam hay mùa chướng, dù tại nhà hàng hay đi dạo quanh các xóm hạ bạc, du khách có thể tự tay lựa chọn nhiều mặt hàng thủy hải sản tươi sống từ những chiếc ghe đánh cá vừa quay mũi vào bờ cho bữa ăn của mình. Cao cấp hơn một chút, du khách có thể đặt sẵn hay nhờ nhân viên nhà hàng hướng dẫn để tự tay chế biến những món đặc sản nổi tiếng của làng ven biển địa phương, mà mỗi món ăn đều gắn một giai thoại, truyền thuyết hấp dẫn. Đó là món cá kèo kho gợt chấm nước mắm rươi, loại nước chấm mà những năm bôn tẩu được người dân địa phương cung tiến, chúa Nguyễn Ánh nếm thử một lần không thể quên được suốt đời nên ban cho mỹ danh là “nước mắm ngự”; Đó là món đuôn chà là béo ngậy hay tôm thẻ, cua biển hấp bia chấm muối tiêu chanh; Đó là còn món chù ụ rang me tuy có phần dân dã nhưng ngon không lẫn vào đâu được, vừa ăn vừa thương cho chàng trai biển hiền lành, tốt bụng mà thật thà nên thua thiệt đành hóa kiếp thành con chù ụ quanh năm bám chặt gốc dừa nước…
Dừng chân tại khu du lịch Biển Ba Động, du khách sẽ có dịp tìm hiểu bề dày lịch sử, chiều sâu văn hóa của vùng đất ven biển Trường Long Hòa, Duyên Hải, Trà Vinh. Gần 3 thế kỷ trước, những ngư dân vùng Bình Thuận vào định cư tại đây đã mở ra nghề đi biển tạo cơm ăn áo mặc và cũng chính họ đã mang theo địa danh Ba Động, tín ngưỡng thờ Bà Cố Hỷ cho vùng đất mới. Những năm tháng quân tướng chúa Nguyễn Ánh trốn chạy sự truy đuổi của nghĩa quân Tây Sơn vào cuối thế kỷ XVIII đã để lại các tên làng có từ tố “Long” như Trường Long Hòa, Long Vĩnh, Long Hữu, Long Toàn… và để lại luôn ngôi mộ Quận chúa như một bí ẩn lịch sử mấy trăm năm. Cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp nổ súng xâm chiếm Nam bộ, tuyến rừng ven biển Duyên Hải là căn cứ của nghĩa binh Đề Triệu, Phan Tôn – Phan Liêm, Lê Tấn Kế – Trần Bình…
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trường kỳ của dân tộc, Trường Long Hòa nói riêng, Duyên Hải nói chung là căn cứ vững chắc của các cơ quan lãnh đạo, lực lượng vũ trang cách mạng tỉnh Trà Vinh, Khu Tây Nam bộ và cả Đặc khu Sài Gòn – Gia Định. Chính địa bàn này là một trong những mắc xích quan trọng của tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại vận chuyển vũ khí từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa vào chi viện cho chiến trường Tây Nam bộ, với những kình ngư lẫy lừng tên tuổi là những người con ưu tú của vùng đất này như Lê Thanh Lòng, Hồ Đức Thắng… Truyền thống vẻ vang đó đã tạo nên một “Trường Long Hòa sắt thép”, một “Duyên Hải anh hùng” mãi mãi là niềm tự hào của các thế hệ cư dân địa phương.
Cũng chính từ vùng biển này, du khách có thể đến tham quan, tìm hiểu, thưởng thức các sản phẩm đặc trưng của các làng nghề truyền thống nổi tiếng một thời như Làng Đáy biển Động Cao, Làng Muối Cồn Cù, Làng Dưa hấu Ba Động…
Ngày nay, với những tiềm năng và thế mạnh đặc thù không đâu có được, vùng ven biển Trường Long Hòa, Duyên Hải trở thành vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh Trà Vinh, với nhiều công trình trọng điểm quốc gia ra đời, đi vào hoạt động như Trung tâm Nhiệt điện Duyên Hải, Luồng tàu biển trọng tải lớn ra vào sông Hậu…
Khu du lịch Biển Ba Động là trọng tâm của một chuỗi các địa chỉ du lịch tiềm năng ven biển Trà Vinh như Trúc Lâm Thiền viện, khu Di tích Bến Tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu, Đình miếu Cồn Trứng, Hải đăng Vàm Láng Nước, Lầu Bà Thượng động Cố hỷ nương nương, mộ cổ Ba Động… rất thuận tiện cho việc tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu hoặc đáp ứng nhu cầu tâm linh của du khách. Nếu dừng chân lâu hơn, du khách cũng có thể lên thuyền làm chuyến du ngoạn dọc theo chiều dài Luồng Tàu biển trọng tải lớn ra vào sông Hậu, ngắm nhìn những chiếc tàu viễn dương mang nhiều quốc tịch trên thế giới đến với các cảng khắp khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, ngắm nhìn Trung tâm Nhiệt điện Duyên Hải và những chiếc tàu vận tải than nguyên liệu neo đậu chờ bốc dở. Có thời gian hơn nữa, du khách làm chuyến du lịch mạo hiểm vượt sóng biển ra tận những thon đáy hàng khơi, nơi có những chàng ngư dân dũng cảm, ngày đêm đối đầu cùng gió to sóng cả trên những chiếc chòi canh bé xíu, góp phần làm giàu đẹp quê hương.
Hiện ở Việt Nam chỉ có hai bảo tàng văn hóa dân tộc Khmer, một ở Sóc Trăng (nay là thành phố Cần Thơ) và một ở Trà Vinh (nay là tỉnh Vĩnh Long). Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh được khánh thành vào năm 1995, lưu giữ rất nhiều hiện vật phong phú về đời sống văn hóa tinh thần, văn hóa vật chất của đồng bào Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long.
Với khuôn viên rất rộng với nhiều cây xanh và cây kiểng tỏa rợp bóng mát cho cả một không gian rộng lớn nằm trong khuôn viên khu Văn hóa - Du lịch Ao Bà Om thuộc phường 8, thành phố Trà Vinh (nay là Phường Nguyệt Hóa, tỉnh Vĩnh Long) là nơi lưu giữ nhiều hiện vật về văn hóa tinh thần và đời sống của đồng bào dân tộc Khmer. Đặc biệt là các văn tự cổ viết trên lá Buông để ghi kinh phật, các lời huấn ca về đạo đức, lối sống, các truyện kể dân gian; tượng chim thần Kâyno hiện thân của nữ thần trong các truyền thuyết tôn giáo của người Khmer; tượng người chim Tết Pronam với nghệ thuật cách điệu tinh tế, dùng để trang trí dưới các hiên chùa; các nông cụ truyền thống của người Khmer…
Đến với Bảo tàng văn hóa dân tộc Khmer, du khách như được đi vào một thế giới khác - thế giới của các thần linh qua óc tưởng tượng bay bổng, lãng mạn và bàn tay tài hoa của các nghệ nhân.
Di tích Ao Bà Om thuộc khóm 4, phường 8, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh (nay là phường Nguyệt Hóa, tỉnh Vĩnh Long). Di tích danh thắng Ao Bà Om còn gọi là Ao Vuông vì ao có hình gần vuông.
Về tên gọi Ao Bà Om có nhiều dị bản giải thích khác nhau. Có bản cho rằng trước đây quanh bờ ao có nhiều rau ngò om, là loại rau thơm dùng để nêm canh chua còn gọi là rau mà om, cho nên gọi đó là Ao Bà Om và dần dần biến âm thanh Ao Bà Om. Dị bản khác cho là chữ Bà Om do danh từ Pờ-ra-Ang (Prah Ang) tức chùa Âng biến âm mà thành. Lại có di bản cho rằng Bà Om là tên gọi của cặp vợ chồng Ông Lũy và Bà Om…Tuy nhiên, truyền thuyết sau đây được nhiều người biết đến.
Ngày xưa, ở vùng đất này cứ đến mùa khô thì nước ngọt khan hiếm đời sống cư dân gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó trong xã hội của người Khmer có sự tranh chấp giữa nam và nữ ai phải đi cưới ai, từ đó có cuộc thi đào ao để giải quyết.
Đúng như quy định, một hôm khi trời vừa tắt nắng hai phái nam và nữ đến địa điểm để thi công. Phái nữ đào ao ở phía đông, phái nam đào ao ở phía tây, hai ao cách nhau khoảng 2.000m còn được gọi là Kù-Bros (Ao Nam), Kù-Srây (Ao Nữ).
Theo quy định của cuộc thi việc đào ao sẽ chấm dứt khi sao mai mọc. Trong lúc cuộc thì đang diễn ra, phái nữ dưới sự chỉ huy của Bà Om cho người chặt một cây tre dài cắm ở một giồng đất cao, trên đầu treo một ngọn đèn để đánh lừa phái nam. Phái nam nhìn thấy ngọn đèn tưởng rằng sao mai đã mọc bèn nghỉ, trong khi đó phái nữ tiếp tục đào đến sáng. Thế là ao bên nữ đào rộng và sâu hơn bên nam và bên nữ thắng cuộc. Để nhớ ơn người phụ nữ có công ấy, người ta đã lấy tên bà đặt cho tên ao - Ao Bà Om.
Tuy chuyện kể có yếu tố siêu nhiên, huyền thoại nhưng in đậm dấu ấn văn hóa của người Khmer. Qua truyền thuyết tục đàn ông phải cười đàn bà, đánh dấu bước phát triển trong xã hội người Khmer đang chuyển từ chế độ mẫu hệ sang phụ hệ. Công trình cũng chứng minh cho ý chí vươn lên của người dân lao động trước đây, trong cuộc đấu tranh chống lại với thiên nhiên, cải tạo cuộc sống.
Đặc điểm của di tích danh thắng Ao Bà Om không chỉ do thiên nhiên tạo nên mà có sự kết hợp giữa thiên nhiên với bàn tay lao động của con người. Toàn bộ khuôn viên Ao Bà Om có diện tích hơn 18 héc ta trong đó diện tích mặt ao là 42.040 m2. Bao quanh ao là bờ cát khi cao khi thấp, lúc rộng lúc hẹp trên bờ ao có hơn 500 cây dầu, cây sao trong đó có những cây cổ thụ tạo nên nét đặc trưng hấp dẫn riêng.
Đặc biệt, dưới tác động của thiên nhiên, qua thời gian nhiều cây cổ thụ trơ lên những bộ rễ kỳ thú là nét độc đáo làm hấp dẫn nhiều người.
Hàng năm, vào ngày 14, 15 tháng Ka-đâk (tháng 12) của người Khmer tức khoảng ngày 14 - 15 tháng 10 âm lịch của người Việt, tại Ao Bà Om diễn ra lễ hội Ok-Om-Bok (lễ hội đút cốm dẹp hay lễ hội cúng trăng) của đồng bào Khmer.
Lễ hội Ok-Om-Bok thu hút hàng chục ngàn người khắp nơi về Ao Bà Om tham quan ngắm cảnh, tham gia các trò chơi dân gian, thưởng thức các loại hình biểu diễn nghệ thuật dân tộc, xem triển lãm và cúng trăng.
Ngày 20/7/1994, Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) ban hành Quyết định số 921-QĐ/BT xếp hạng Ao Bà Om là di tích quốc gia thuộc loại hình danh lam thắng cảnh.
Bảo tàng Dừa sáp Trà Vinh không chỉ là nơi lưu giữ giá trị văn hóa đặc sắc mà còn là điểm đến du lịch độc đáo dành cho du khách muốn khám phá câu chuyện đặc biệt về cây dừa sáp – một loại cây chỉ phát triển tốt trên vùng đất Trà Vinh. Được xây dựng với tâm huyết bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, cùng khát vọng vun đắp cho quê hương, Bảo tàng mang đến hành trình khám phá lịch sử đầy ấn tượng và những trải nghiệm độc đáo về văn hóa và sự sáng tạo của con người Trà Vinh.
Bảo tàng Dừa sáp Trà Vinh tọa lạc tại Số 221, ấp 2, xã Thạnh Phú, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh (nay là xã Tam Ngãi, tỉnh Vĩnh Long), được khởi công xây dựng vào tháng 03/2023 và khánh thành vào ngày 13/12/2024. Bảo tàng được xây dựng với tổng nguồn vốn đầu tư trên 20 tỷ đồng trên diện tích xây dựng gần 1.500m2, công trình được thiết kế bao gồm 01 trệt và 02 lầu. Chủ đề chính của Bảo tàng tập trung vào cây dừa sáp Trà Vinh, từ lịch sử hình thành và phát triển của cây dừa sáp đến các hoạt động sinh hoạt đời sống của cộng đồng bà con trồng dừa sáp, cũng như những sản phẩm chế biến sâu và đa dạng từ trái dừa sáp – Đặc sản của vùng đất Trà Vinh.
Bảo tàng Dừa sáp Trà Vinh là một không gian văn hóa sống động, nơi mỗi góc nhỏ đều là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Chúng tôi tự hào giới thiệu sự đa dạng văn hóa đặc trưng của cộng đồng Kinh, Khmer, Hoa qua các hiện vật và câu chuyện độc đáo về trái dừa sáp Trà Vinh, biểu tượng của sự đoàn kết và giao thoa văn hóa của ba dân tộc cùng chung sống hiền hòa tại Trà Vinh từ nhiều năm qua. Bảo tàng cũng là địa chỉ tri ân đặc biệt, ghi nhớ công lao của nhà sư Thạch Sô, người đã đưa trái dừa sáp quý báu về Việt Nam cách đây 100 năm (năm 1924), góp phần làm phong phú thêm di sản văn hóa của quê hương.
Bảo tàng Dừa sáp Trà Vinh sở hữu một bộ sưu tập đa dạng và phong phú, bao gồm các hiện vật liên quan đến cuộc sống và sinh hoạt của bà con Trà Vinh. phản ánh lịch sử và văn hóa vô cùng đặc sắc.
Không gian trưng bày nổi bật với bức tượng sáp của Đức Hòa thượng Thạch Sô, gốc cây dừa sáp đầu tiên được đưa về Việt Nam từ 100 năm trước. Thêm vào đó, Bảo tàng trưng bày nhiều bức tranh được vẽ tay độc đáo bởi Nghệ nhân nhân dân Lý Lếch, khắc họa rõ nét về câu chuyện lịch sử và chuyến du hành đặc biệt của cây dừa sáp về Việt Nam năm 1924, cũng như đời sống sinh hoạt của bà con gắn liền với hình ảnh và sự hiện diện của trái dừa sáp quê hương.
Để khai thác có hiệu quả, sắp tới đây Công ty cần tập trung xây dựng sản phẩm du lịch hấp dẫn, tăng cường quảng bá marketing, học hỏi và tối ưu vận hành các dịch vụ du lịch, kết nối với các đối tác du lịch trong và ngoài nước, đào tạo đội ngũ hướng dẫn viên, nhân viên chất lượng cao…”
Bảo tàng Dừa sáp Trà Vinh là một công trình ý nghĩa trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của trái dừa sáp, đồng thời tạo dựng một không gian văn hóa đặc sắc cho cộng đồng.
Phước Minh cung còn có các tên gọi khác là Chùa Quan Thánh đế hay Chùa Ông là cơ sở tín ngưỡng tiêu biểu của cộng đồng người Hoa trên địa bàn tỉnh Trà Vinh (nay là tỉnh Vĩnh Long).
Như tên gọi chùa Quan Thánh đế, vị thần chính được thờ tại Phước Minh cung là Quan Công, tức Quan Vũ hay Quan Vân Trường – viên tướng văn võ song toàn, nổi tiếng trung hiếu tiết nghĩa của lịch sử Trung Hoa thời Tam quốc. Sau khi ông mất tương truyền hiển thánh và việc thờ cúng Quan Thánh đế trở thành tín ngưỡng phổ biến như một giá trị văn hóa truyền thống khắp đất nước Trung Hoa. Trước những biến động của đất nước, nhiều thế hệ người Hoa di cư ra nước ngoài tìm kế sinh nhai, trong đó có bộ phận đến Trà Vinh, đã mang theo tín ngưỡng thờ Quan Thánh đế vừa cầu mong sự phò trợ của ngài, vừa để giữ gìn bản sắc văn hóa cội nguồn cho các thế hệ cháu con sinh ra, lớn lên nơi đất khách quê người.
Cùng được phối tự với Quan Thánh đế tại Phước Minh Cung còn có Phước đức chính thần, Chúa sanh nương nương và hai vị tùy tướng của Quan Thánh đế là Quan Bình và Châu Xương.
Phước đức chính thần trong quan niệm của người Hoa Trà Vinh là sự đồng nhất giữa Thổ công, Thần tài và Bổn đầu công. Riêng Bổn đầu công, hay còn gọi là ông Bổn là viên quan có tên Trịnh Tu Hòa – người được hoàng đế nhà Minh cử đi thương thuyết với triều đình các nước Đông Nam Á tạo điều kiện cho Hoa kiều làm ăn, sinh sống.
Phước sanh nương nương hay còn gọi là Mẹ Thai sanh, trong quan niệm của người Hoa, là vị nữ thần cai quản việc sinh đẻ, nuôi dưỡng trẻ con.
Phước Minh cung tọa lạc tại số 44 đường Điện Biên Phủ, Phường 3, thành phố Trà Vinh. Phường 3 là phường trung tâm thương mại sầm uất, có đông đồng bào Hoa cư trú, rất thuận tiện các hoạt động văn hóa tâm linh không chỉ tại địa phương mà cả cộng đồng Hoa kiều cư trú khắp các tỉnh Nam bộ.
Khuôn viên ngôi chùa rộng hơn 800m2, cửa trước quay về hướng đông ra mặt tiền đường Điện Biên Phủ, cửa sau quay về hướng tây ra đường Lê Lợi. Cũng như nhiều ngôi chùa người Hoa khác, Phước Minh cung có kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc” (bên trong là chữ “Công”, vòng ngoài là chữ “Quốc”). Mặt bằng tổng thể gồm ba tòa nhà tiền điện, trung điện và chính điện song song nhau; dọc hai bên có hai dãy nhà Tả điện và Hữu điện đối diện nhau, tạo thành hình chữ “Khẩu”. Giữa các tòa nhà có sân thiên tĩnh và hành lang thông thương nhau. Toàn bộ các tòa nhà đều thiết kế theo tầng bậc và lợp ngói lưu ly. Mặt dựng đầu hồi trang trí bằng các đồ án truyền thống Trung Quốc như lưỡng long tranh châu, bát tiên, hoa lá, muông thú…
Từ cửa chính bước vào qua khoảng sân hẹp là ngôi Tiền điện. Tiền điện có 16 trụ cột bằng gỗ lim sơn màu son, trong đó có 4 cột vuông trên táng đá tròn và 12 cột tròn trên táng đá vuông, biểu trưng của âm dương hòa hợp. Sảnh Tiền điện cũng là mặt tiền của ngôi chùa nên được trang trí rất công phu. Cửa chùa bằng gỗ quý với bốn cánh là bốn bức bích họa thể hiện hình tượng bốn vị danh tướng Trung Hoa là Tần Thúc Bảo, Uất Trì Cung, Từ Mậu Công và Ngụy Trưng. Phía trên là bức đại tự “PHƯỚC MINH CUNG” bằng chữ Hán cùng các phù điêu thể hiện đề tài truyền thống như Song tiền, Đào viên kết nghĩa, tứ dân… Bao lam được chạm trổ hình lưỡng phụng tranh châu, tượng trưng nguyện vọng âm dương hòa hợp, con người và vạn vật sinh sôi phát triển. Tiền điện là nơi thờ Ngọc hoàng thượng đế ở án giữa cùng phối tự Tiên hiền – Hậu hiền hai bên tả hữu.
Trung điện là tòa nhà nhỏ hình vuông, có bốn cột đều vuông trên táng đá tròn. Đây là nơi thiện nam tín nữ thập phương tề tựu chuẩn bị lễ vật cúng tế trước khi bước vào ngôi Chính điện.
Chính điện là tòa nhà cân đối với Tiền điện với 16 cột tròn trên táng đá vuông. Ngôi chính điện được chia thành ba gian:
– Gian trung tâm đặt án thờ Quan Thánh đế quân dưới bức đại hoành phi bằng chữ Hán “Càn khôn chính khí”. Ba pho tượng Quan Vân Trường ở giữa cùng Quan Bình, Châu Xương hầu hai bên với ngựa Xích thố bằng mây.
– Gian trái đặt án thờ Chúa sanh nương nương dưới bức hoành phi “Tải sinh tải dục” bằng chữ Hán.
– Gian phải đặt án thờ Phúc đức chính thần dưới bức hoành phi “Uy linh uy đức” bằng chữ Hán.
Trước các án thờ từ Tiền điện vào Chính điện được bố trí nhiều vật linh thờ cúng như trống, chuông, thư quyển, bát bửu, lỗ bộ, lư trầm, lư hương, chân đèn…, trong đó có một số cổ vật trên trăm năm tuổi. Các án thờ bằng chất liệu gỗ quý được chạm khắc, sơn phết tỉ mỉ, tinh xảo.
Toàn bộ tường vách, trụ cột ngôi chùa được sơn chủ đạo là màu son. Trên vách được trang trí bằng các bức bích họa, phù điêu và chạm trỗ gỗ với các chủ đề mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của người Hoa như bát tiên, long vân, lưỡng long tranh châu, Đào viên kết nghĩa…cùng hệ thống các bức hoành phi, liễn đối bằng chữ Hán thể hiện lòng ngưỡng vọng đối với trời đất, công ơn dưỡng dục sinh thành, đề cao khí phách trung liệt, tiết nghĩa, thuận hòa… Tất cả các tác phẩm mỹ thuật được bố trí một cách hài hòa, chặt chẽ từ chủ đề tư tưởng, màu sắc, bố cục… thể hiện ước mơ của các thế hệ người Hoa trên vùng đất Trà Vinh về một thiên nhiên phong điều vũ thuận, con người và vạn vật không ngừng sinh sôi phát triển.
Phước Minh cung thực sự là một “Bảo tàng mỹ thuật truyền thống” của cộng đồng người Hoa trên địa bàn Trà Vinh cũng như cả Nam bộ.
Cơ sở tín ngưỡng Phước Minh cung gắn liền với lễ hội văn hóa dân gian Nguyên tiêu thắng hội, diễn ra vào đêm Mười bốn và suốt ngày Rằm tháng Giêng âm lịch hàng năm. Ban đầu, đây là lệ cúng Vía Đức Quan Thánh đế hiển thánh vào ngày mồng Bốn tháng Giêng âm lịch. Dần dần, để thuận lợi hơn cho người dân địa phương cũng như thiện nam tín nữ gần xa, lễ hội được tổ chức vào dịp Nguyên tiêu.
Từ chiều Mười bốn âm lịch, Ban Quản trị Phước Minh cung đã trang hoàng cờ phướn, cờ nheo, lồng đèn đỏ… từ bên trong ra bên ngoài ngôi chùa và dọc tuyến phố Điện Biên Phủ cùng với tiếng trống, tiếng chuông, tiếng nhạc dàn “lầu cấu”… tạo ra một không khí lễ hội nào nức lòng người. Hàng chục ngàn người dân tại các địa phương trong tỉnh và đông đảo người Hoa từ khắp các tỉnh thành Nam bộ cùng về tham dự. Họ đến với tất cả lòng thành kính cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, mua bán hanh thông, gia đình hạnh phúc, xã hội no ấm an vui. Nhiều trò chơi dân gian như múa lân, múa rồng, múa sư tử cùng dàn nhạc các bang hội người Hoa, dàn nhạc truyền thống người Kinh, người Khmer thay nhau trỗi lên trong suốt đêm Mười bốn và trọn ngày Rằm tháng Giêng âm lịch.
Với các giá trị văn hóa về nghệ thuật kiến trúc, hội họa, điêu khắc, âm nhạc truyền thống cũng như vai trò của ngôi chùa trong đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng người Hoa, vai trò củng cố tình đoàn kết các dân tộc cùng cộng cư trên vùng đất Trà Vinh, Phước Minh cung đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia vào năm 2005.
Ngày nay, Phước Minh cung là địa chỉ du lịch văn hóa tâm linh sắc thái dân tộc Hoa và là một địa chỉ quan trọng trong hệ thống chuỗi địa chỉ du lịch trên địa bàn.
Khu di tích Bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu thuộc ấp Cồn Trứng, xã Trường Long Hòa, huyện Duyên Hải (nay là Phường Trường Long Hòa, tỉnh Vĩnh Long). Đây không chỉ là địa chỉ giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ mà còn là điểm tham quan du lịch tiềm năng, cùng với Khu du lịch Ba Động, điện gió làm nên cụm văn hóa – du lịch liên hoàn của vùng biển Duyên Hải – Trà Vinh.
Cổng khu di tích bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu.
Tháng 7/1959, để chi viện nguồn lực cho cách mạng miền Nam trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước, Bộ Chính trị ra quyết định thành lập đơn vị vận tải quân sự trên biển – Đoàn 759 (sau đổi thành Đoàn 125). Đến đầu năm 1961, Trung ương ra chỉ thị cho các tỉnh gồm Bà Rịa, Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau chuẩn bị bến bãi và tổ chức tàu thuyền ra Bắc để thăm dò đường vận chuyển vũ khí vào Nam. Tại tỉnh Trà Vinh, đồng chí Trần Văn Long – Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh đã chỉ đạo tuyển chọn những cán bộ dũng cảm, gan dạ, có kinh nghiệm đi biển, chuẩn bị thuyền cho chuyến vượt biển ra Bắc.
Đúng 17 giờ ngày 03/8/1961, con thuyền chở bảy đồng chí xuất phát từ vàm Khâu Phục ra khơi, đồng chí Lê Văn Hòa (Bảy Hòa) bị say sóng nên phải ở lại. Sáu anh em còn lại trên thuyền thống nhất bốc thăm đặt tên mới cho từng người theo khẩu hiệu “Đoàn kết đấu tranh thắng lợi” nhằm hạ quyết tâm thực hiện bằng được nhiệm vụ được giao, gồm: Trần Văn Mao (Ba Đoàn), Nguyễn Văn Khương (Tám Kết), Phan Văn Lẹ (Hai Đấu), Lê Văn Lòng (Hai Tranh), Hồ Đức Thắng (Bảy Thắng), Ngô Văn Tôi (Bảy Lợi).
Thuyền đi được hai ngày, đến Nha Trang thì gặp bão và tám ngày sau bị lạc sang Ma Cao, Trung Quốc (lúc bấy giờ là thuộc địa của Bồ Đào Nha). Đến 22 giờ ngày 15 tháng 8 năm 1961, thuyền được tàu biên phòng Trung Quốc đưa về huyện Du Hải – Quảng Châu, sau đó được lãnh sự quán của ta tổ chức đưa về Hà Nội bằng tàu hỏa đề gặp Bác Hồ báo cáo lại quá trình vượt biển và được Bác Hồ tặng cho mỗi người 01 khẩu súng P38.
Bia tưởng niệm di tích đường Hồ Chí Minh trên biển.
Tháng 9 năm 1962, đồng chí Phạm Thái Bường, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Trung ương Cục miền Nam ra quyết định thành lập Đoàn 962 quản lý các bến tiếp nhận vũ khí các tỉnh. Bến Trà Vinh do đồng chí Lê Văn Sến (Năm Sến) – Phó chính ủy Đoàn 162 trực tiếp phụ trách.
Thời gian này, Tỉnh ủy Trà Vinh quyết định chọn 2 xã ven biển là Trường Long Hòa và Long Vĩnh thuộc huyện Duyên Hải (nay là các xã: Trường Long Hòa, Dân Thành thuộc thị xã Duyên Hải; xã Đông Hải, Long Vĩnh thuộc huyện Duyên Hải) để mở bến tiếp nhận vũ khí. Cụm Bến 1 thuộc khu vực vàm Rạch Cỏ – La Ghi, cụm Bến 2 thuộc khu vực Phước Thiện, Hồ Tàu, Khâu Lầu, Láng Nước. Những khu vực này là vùng căn cứ cách mạng, luôn là mục tiêu tấn công của địch vì vậy việc che giấu, vận chuyển vũ khí vô cùng gian nan vất vả.
Ngày 17 tháng 3 năm 1963, Bến Trà Vinh tiếp nhận chuyến tàu đầu tiên vào vàm Phước Thiện. Với địa thế sông ngòi chằng chịt, rừng ngập mặn nhiều cây thấp có thể cho tàu có trọng tải lớn ép vào để ngụy trang, con tàu đã được cất giấu an toàn. Tiếp đó là chuyến thứ hai vào vàm Láng Nước chở theo 70 tấn vũ khí. Từ năm 1963 đến 1966, Bến Trà Vinh đã đón 16 chuyến với 689 tấn hàng. Riêng Bến Cồn Tàu đón 10 chuyến, trong đó năm 1963 đón 4 chuyến, năm 1964 đón 6 chuyến.
Tuy hoạt động chỉ trong thời gian ngắn, nhưng Bến Trà Vinh là một mắc xích quan trọng của tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển và Bến Cồn Tàu là trọng tâm của mắc xích quan trọng ấy. Năm 2004, Bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu được Bộ VHTT (nay là Bộ VHTT&DL) công nhận là di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Đến năm 2010, Khu di tích Bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu được đầu tư xây dựng, đưa vào hoạt động với diện tích 1,2 ha gồm Bia tưởng niệm và Nhà trưng bày hình ảnh, hiện vật gắn liền với chiến công của quân dân Trà Vinh đối với tuyến Đường Hồ Chí Minh trên biển.
Một góc nhà trưng bày bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu.
Đến tham quan khu di tích, du khách có thể thắp nén hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh khi làm nhiệm vụ trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển, tham quan Nhà trưng bày, nhìn Bia tưởng niệm vươn cao trong nắng mới như nhắc nhớ chiến công năm xưa và truyền thống đấu tranh kiên cường của cha ông ta trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong những thập niên gần đây, Chùa Cò là một trong những địa chỉ du lịch nổi tiếng của tỉnh Trà Vinh (nay là tỉnh Vĩnh Long), có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với du khách gần xa. Ngôi chùa này tọa lạc tại ấp Cây Da, xã Đại An, huyện Trà Cú (nay thuộc xã Đại An, tỉnh Vĩnh Long) Ngôi chùa được xây dựng trên con giồng lớn của xã Đại An nên có tên là chùa Giồng Lớn nhưng người Khmer gọi là Wat Phnô Đôn vì chung quanh có nhiều dừa (tiếng Khmer Wat là chùa, Phnô là giồng cát, Đôn là cây dừa). Từ đầu thế kỷ XX, trong khuôn viên nhiều cây xanh của chùa, từng đàn cò về quần tụ ngày một đông hơn nên chùa có tên Chùa Cò.
Ngôi chùa được xây dựng trên một rẻo giồng nhỏ nằm thoi loi như một bán đảo, phía tây nối vào Giồng Lớn, phía bắc là vuông đất rộc cát pha sét, hai phía đông và nam là cánh đồng trũng thấp. Dừng xe ngoài quốc lộ, khách tham quan phải đi bộ chừng trăm thước trên một lối nhỏ rợp bóng tre để vào khuôn viên ngôi chùa. So với các ngôi chùa Khmer khác, điều khác biệt đầu tiên dễ nhận ra là cổng chính Chùa Cò lại đi vào phía sau ngôi chánh điện. Đây là sự ứng biến cho phù hợp với điều kiện địa lý tự nhiên vì theo tư tưởng Phật giáo Nam tong Khmer, ngôi chánh điện bao giờ cũng hướng về phía đông, trong khi phía trước chánh điện lại trũng thấp, khó đi lại.
Cũng như nhiều ngôi chùa Khmer khác trên địa bàn tỉnh, Chùa Cò có từ lâu đời và được xây dựng khang trang từ những thập niên đầu của thế kỷ XX. Qua thời gian, các kiến trúc đã xuống cấp. Đến năm 2010, được một doanh nhân tại thành phố Hồ Chí Minh gốc người địa phương phát tâm cúng dường nên ngôi chùa được xây dựng lại như hiện nay.
Ngôi Chánh điện là kiến trúc trung tâm, được xây dựng trên nền cao tại vị trí cao nhất của khuôn viên. Tuy được xây dựng mới bằng các vật liệu hiện đại nhưng ngôi Chánh điện Chùa Cò vẫn giữ nguyên vẹn phong cách kiến trúc cổ kính của ngôi chùa Phật giáo Khmer. Mái chùa lợp ngói và có ba lớp. Mái trên cùng dốc hơn các mái còn lại. Các góc đầu đao của mái đều có đuôi rồng cao vút uốn lượn. Giữa các cấp mái có rèm che mưa, che nắng, chạm khắc hoa văn. Trên các bờ dãy giáp mí của mái là các con rồng nằm xoãi dài, đầu hướng xuống phía dưới. Ở các đầu cột ngoài hành lang chùa đều có tượng vũ nữ Keynor dang tay chống đỡ mái ngói. Cột, kèo, xiên, đòn tay, la phông… ở ngôi chính điện đều bằng gỗ quý sơn son thếp vàng và chạm khắc hoa văn hết sức công phu, sắc sảo với nhiều đề tài khác nhau. Trên vách có vẽ các tranh phân kỳ sự tích Phật Thích Ca. Trên mái có đắp hình tượng rồng rất độc đáo. Như bao ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer khác, bên trong chánh điện Chùa Cò cũng thờ duy nhất Phật Thích Ca.
Các kiến trúc khác của Chùa Cò như tăng xá, nhà hội, giảng đường… đều tập trung ở phía bắc và cùng nhìn về hông ngôi chánh điện.
Giá trị du lịch và sự nổi tiếng của Chùa Cò không nằm ở nghệ thuật kiến trúc ngôi chánh điện và các công trình phụ khác mà chính ở khuôn viên rộng hơn 3 ha với hàng chục ngàn cánh cò trắng muốt quần tụ quanh năm.
Vừa bước vào khuôn viên ngôi chùa, khách tham quan không khỏi ngỡ ngàng trước cảnh quan vừa đối lập vừa hòa quyện vào nhau. Ngôi chánh điện cao vút, nhiều màu sắc lộng lẫy, uy nghi trong màu xanh bạt ngàn cây lá. Những âm thanh Koóc, koọc. Kroóc koọc koọc… vang lên không ngớt, khi nhặt khi thưa, khi to khi nhỏ, suốt cả ngày đêm. Đó là tiếng kêu của hàng chục ngàn cá thể cò, với mật độ khá dày đặc trên tất cả các cành nhánh có thể làm tổ được của khu rừng trong khuôn viên nhà chùa. Gần như toàn bộ họ hàng nhà cò hiện diện trên lãnh thổ Việt Nam đều có đại diện tại Chùa Cò như cò trắng, cò ma, cò đốm, cò cổ đỏ, cò quắm… Xen lẩn vào các tổ cò, với mật độ ít hơn, là sự có mặt của rất nhiều loài chim tự nhiên khác, trong đó có nhiều loài đã trở thành quý hiếm như giang sen, điên điển, quạ, vòng vọc, trích… Tất cả chúng cùng cộng cư một cách hòa bình, thân thiện, tuy cũng có lúc không tránh khỏi xích mích, hiểu lầm.
Cò là loài chim nhiệt đới, không có tập tính di trú. Tuy nhiên, mùa khô chúng phải kiếm ăn xa nên có khi nghỉ tạm qua đêm trên những cánh đồng nào đó. Do vậy, đến tham quan Chùa Cò du khách nên đi vào mùa mưa cũng là mùa sinh sản của chúng. Cứ mỗi sáng, hàng ngàn cánh cò, chia thành những đàn nhỏ rời khỏi tổ, lao lên trời xanh trong đội hình chữ V ngược; và mỗi chiều, ngần ấy cánh cò lại rủ nhau về tổ, tạo một khung cảnh thanh bình, nên thơ vốn có của làng quê Việt Nam.
Khuôn viên Chùa Cò trước đây có nhiều chủng loài thực vật đặc hữu đất giồng cát như sao, dầu, trâm, bứa, tre, trúc… Qua thời gian, phân cò cứ bám vào thân, vào lá, nhất là đọt non làm cho lá cây teo tóp lại nên nhiều cội sao, dầu cổ thụ không chịu nổi, chết dần. Sao, dầu chết tới đâu thì tre lấn ra tới đó. Tre và cò thể hiện mối quan hệ cộng sinh lý tưởng. Phân cò bón cho tre ngày thêm tươi tốt, trong khi cành nhánh và cả lá tre là môi trường tuyệt vời cho cò làm tổ, sinh sôi phát triển.
Chùa Cò Trà Vinh không chỉ là một sân chim rộng lớn thu hút khách du lịch, mà còn là một bảo tàng chim đúng nghĩa cho công tác nghiên cứu khoa học, bảo vệ nguồn gene tự nhiên cho các thế hệ con cháu sau này.
Cò quần tụ ban đầu là một hiện tượng tự nhiên. Thế nhưng để duy trì và phát triển đàn cò đông hàng chục ngàn cá thể như hiện nay là nhờ vào sự bảo vệ nghiêm ngặt của các thế hệ sư sãi, cũng như ý thức bảo vệ thiên nhiên của người dân địa phương. Từ nhiều thập niên trước, nhà chùa đã đề ra những nội quy cấm ngặt người dân trong phum sóc cũng như người lạ mặt đến săn bắt, mua bán chim cò. Hồi chiến tranh, binh lính chế độ cũ ngang ngạnh, ương bướng là vậy mà khi nổ súng bắn chim trong khuôn viên nhà chùa đã bị vị sư cả Lâm Co xách gậy đuổi chạy tuốt ra lộ. Lần khác, sư cả cùng sư sãi, bà con trong phum sóc gom những cánh chim không may bị bọn lính bắn chết mang lên tận dinh tỉnh trưởng đấu tranh, yêu cầu trừng trị cấp dưới vào chùa phá phách.
Những năm gần đây, việc bảo vệ đàn chim cò trong khuôn viên được các vị sư sãi Chùa Cò tiến hành nghiêm túc, quy củ hơn. Những lớp rào tre được dựng lên, chia khuôn viên nhà chùa thành 3 khu vực riêng biệt. Chung quanh ngôi chánh điện và các kiến trúc phụ khác là khu vực tự do đi lại, được phép thực hiện các hoạt động vui chơi giải trí. Tiếp đến là “vùng đệm”, khách tham quan có thể ra vào nhưng không được gây ồn ào, huyên náo. Cuối cùng là “vùng lõi” là khu vực mà những bụi tre chen kín nhau rậm rạp và mật độ tổ cò dày đặc, mọi sự ra vào đều bị ngăn cấm, trừ khi được phép của chính vị sư cả trụ trì. Ở “vùng đệm”, nhà chùa dựng tháp canh cao hơn hẳn các ngọn tre để người có trách nhiệm tiện quan sát và du khách có thể nhìn ngắm, tìm hiểu các tập tính sinh hoạt của đàn cò.
Chùa Cò cùng các di tích Phế tích Lưu Cừ, Làng cá Định An, Phước Thắng cung với Nguyên tiêu thắng hội nổi tiếng… là những địa chỉ du lịch đa dạng ven biển và ven sông Hậu, thuận tiện giao thông cả đường bộ lẫn đường thủy, tạo ra tiềm năng lớn để phát triển ngành công nghiệp không khói trên địa bàn.
Chùa Hang, tiếng Khmer gọi là Wat Kompong Ch’rây, là ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer nổi tiếng, tọa lạc tại khóm 3, thị trấn Châu Thành (nay là xã Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long).
Khởi nguyên, ngôi chùa này quay mặt về hướng đông, nhìn ra dòng sông Long Bình, nơi có bến ghe xuồng gần bên gốc đa để bà con phum sóc tiện lên chùa nghe kinh, lễ Phật nên có tên Wat Kompong Ch’rây (Chùa Bến Cây Đa). Đến đầu thế kỷ XX, chùa làm thêm một cổng phụ phía tây, quay ra tỉnh lộ 36 (nay là quốc lộ 54). Cổng phụ này có dạng tam quan mái vòm, tường rất dày, dài 8 m, thành hình hai hang nhỏ hai bên, hang lớn ở giữa, nên chùa có thêm tên Chùa Hang.
Cổng chùa dạng hang vòm không chỉ là công trình kiến trúc nghệ thuật tạo sự khác biệt giữa Chùa Hang với các chùa Khmer còn lại trong tỉnh mà còn ẩn chứa giá trị lịch sử tôn giáo sâu sắc. Cổng hang là “vết tích” cho thấy Phật giáo Nam tông Khmer Trà Vinh có sự kế thừa nhất định Bà La Môn giáo, bởi ngày xưa, các tu sĩ Bà La Môn thường lặng lẽ tu luyện trong các hang động thâm u, vắng bóng người qua lại. So với các ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, Chùa Hang là ngôi chùa không lớn. Sức hấp dẫn của ngôi chùa này đối với du khách gần xa chính ở xưởng điêu khắc gỗ hoạt động gần 30 năm, với nhiều sản phẩm tạo được tiếng vang trên thị trường mỹ nghệ Việt Nam và một “sân chim” được bảo vệ nghiêm ngặt tồn tại sát bên cạnh thành phố Trà Vinh.
Người Khmer Nam bộ là một tộc người sống rất thân thiện với môi trường, với thiên nhiên, đặc biệt là với cây xanh. Ở đâu có người Khmer là ở đó có cây xanh. Cả tỉnh Trà Vinh có 143 ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer là 143 quần thể cây xanh rộng hàng hecta, với rất nhiều cổ thụ hàng trăm năm tuổi luôn được bảo vệ tốt.
Những thập niên trước, khi đốn hạ cây xanh, nhất là cây cổ thụ, người ta chỉ quan tâm phần gỗ thu được từ thân cây, còn gốc cây chỉ để làm củi, thậm chí bỏ luôn tại chỗ, cho thời gian mưa nắng làm mục đi, trả lại diện tích đất cho cây khác vươn lên. Cuối thập niên 1980, trong một lần trùng tu, nhà chùa rước nghệ nhân Thạch Buôl từ Vĩnh Long về thực hiện việc trang trí các khung gỗ chánh điện. Thấy qua bàn tay nghệ nhân, những thân gỗ như nhau bỗng hóa thành nhiều hình tượng, hoa văn sinh động nên sư cả Thạch Suông gợi ý nghệ nhân Thạch Buôl tận dụng giá trị phần gốc cây đang bị bỏ mục khắp nơi. Vậy là lớp học điêu khắc gỗ tại chùa Hang ra đời, với gần 10 học viên là các sư sãi nhà chùa và thanh niên trong phum sóc. Xưởng điêu khắc gỗ nghệ thuật được thành lập ngay trong khuôn viên nhà chùa, vừa hoạt động sản xuất vừa tiếp tục đào tạo nghề cho thanh niên khắp nơi, theo hình thức truyền nghề, cầm tay chỉ việc.
Đến thăm chùa Hang, du khách được trực tiếp chứng kiến các nghệ nhân và công nhân xưởng điêu khắc gỗ bằng nhiều dụng cụ khác nhau, chế tác thủ công tạo hình các tác phẩm đặc sắc từ những gốc cây đủ loại, đủ kích cỡ và hình thù. Khâu khó nhất mà cũng đòi hỏi tư duy nghệ thuật cao nhất là nhận dạng hình tượng, đường nét, bố cục tác phẩm từ những gốc cây với bộ rễ tự nhiên chằng chịt, không gốc nào giống gốc nào. Nghệ nhân Sơn Sốc, người thợ cả của xưởng bảo rằng có khi dựng gốc cây lên, chăm chú nhìn ngày này qua ngày khác cũng chẳng mường tượng được gì, bỗng nhiên một giây phút thăng hoa nào đó, từ những đường nét, hình thù của gốc và rễ cây, như hiện rõ các hình tượng muông thú, hoa lá. Vậy là, với cây bút bi trong tay, nghệ nhân phác họa hình tượng, đường nét một cách chi tiết trực tiếp lên từng phần cụ thể từ gốc ra đến rễ lớn, rễ nhỏ… để nhóm thợ thủ công thực hiện khâu cưa cắt, đục đẻo, chạm trỗ.
Qua gần 30 năm hoạt động, xưởng điêu khắc gỗ nghệ thuật Chùa Hang đã cho ra đời rất nhiều ngàn tác phẩm với nhiều kích cỡ khác nhau. Có tác phẩm cầm gọn trong tay dùng trang trí trên bàn làm việc đến những tác phẩm hoành tráng chiếm diện tích đến 60 m2, nặng nhiều tấn chỉ có thể đặt tại sảnh các cung điện, đền đài, khách sạn qui mô lớn. Tất cả các tác phẩm từ xưởng điêu khắc gỗ Chùa Hang, dù lớn dù nhỏ, đều mang đậm dấu ấn nghệ thuật tạo hình truyền thống của người Khmer Nam bộ.
Đến tham quan, du khách có thể chọn mua hoặc đặt hàng cho chuyến tham quan sau những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc gỗ mà mình ưng ý nhất.
Từ xưởng điêu khắc gỗ Chùa Hang, lần lượt các thế hệ nghệ nhân được đào tạo trở về địa phương mở cơ sở điêu khắc tại chùa hay tại gia đình, dần dần hình thành làng nghề truyền thống điêu khắc gỗ nghệ thuật Khmer trên địa bàn cả tỉnh. Những gốc cây tưởng chỉ bỏ đi khắp các phum sóc giờ được các nghệ nhân chắp cánh thành những tác phẩm nghệ thuật có sức lay động lòng người.
Khuôn viên Chùa Hang rộng khoảng 7 ha, thực sự là khu rừng nguyên sinh với nhiều chủng loài thực vật đặc hữu đất giồng cát như sao, dầu, tre, trúc… chen nhau thành nhiều tầng cao thấp khác nhau rất có giá trị về mặt sinh quyển và là nguồn gene tự nhiên cho các thế hệ sau.
Từ đầu thế kỷ XX, khu rừng trong khuôn viên Chùa Hang có rất nhiều dơi quạ trú ngụ. Ban đêm chúng tỏa đi tìm thức ăn, ban ngày thì treo lủng lẳng trên khắp các cành cây. Tuy nhiên, trong chiến sự Xuân Mậu Thân, chính quyền Sài Gòn cho máy bay ném bom, bắn pháo vào khuôn viên ngôi chùa, hủy hoại nhiều kiến trúc, gãy đổ nhiều cây xanh và gây thương vong cho một số sư sãi, bà con Khmer trong phum sóc đang lánh nạn trong chùa. Từ đó, những bầy dơi lần lượt bỏ đi.
Sau ngày chiến tranh kết thúc, nhất là từ thập niên 1990 trở lại đây, khuôn viên Chùa Hang lại trở thành nơi quần tụ của nhiều loại chim. Ngay khi có hiện tượng chim quần tụ trở về, sư sãi và bà con trong phum sóc rất vui mừng. Nhà chùa đặt ra những quy định bảo vệ chim và bảo vệ cây rừng rất nghiêm ngặt, tạo ra môi trường tự nhiên an bình cho những đàn chim trở về trú ngụ ngày càng đông hơn.
Ngày nay, trên khuôn viên hơn 7 ha Chùa Hang có đến gần hàng chục ngàn cá thể chim các loại, nhiều nhất là cò trắng, cò ngà, cò cổ đỏ và diệc. Được con người yêu thương bảo vệ, chim ngày càng dạn dĩ hơn. Chúng làm tổ cả trên khu vực cây cảnh mới trồng trước sân chánh điện, nhà tăng xá…
Đến Chùa Hang, sau khi chiêm bái Đức Phật tọa trên chánh điện, tham quan xưởng điêu khắc gỗ nghệ thuật, du khách có thể dành chút thời gian ngồi trên các băng đá bày rải rác quanh ngôi chánh điện. Trong tầm mắt chúng ta, những cánh chim trời buổi sáng vút lên cao, tỏa đi tìm thức ăn trên những cánh đồng, dòng sông gần đó; Buổi chiều, chúng lần lượt tìm về, mang theo thức ăn cho những cánh chim non đang mong ngóng, tạo ra không khí huyên náo cho cả khu rừng chốn thiền môn yên tĩnh.
chùa Ông Mẹt trang nghiêm, bề thế như một hình thức tôn vinh các giá trị văn hóa dân tộc. Ngôi chùa gồm nhiều kiến trúc hài hòa nhau bao quanh ngôi chánh điện, trong khuôn viên rộng gần 1,3ha có vòng tường kín bao bọc chung quanh, mặt tiền nhìn ra đường Lê Lợi ở hướng đông, đúng với tư tưởng truyền thống Phật giáo là Đức Phật ở Tây phương nhưng luôn dõi mắt về hướng đông để cứu độ chúng sinh. Tường phía sau có cổng nhỏ ở hướng tây, nhìn ra đường Tô Thị Huỳnh. Hai bên là đường Nguyễn Trãi ở hướng nam và Lý Tự Trọng ở hướng bắc.
Cổng chùa Ông Mẹt là một kiến trúc đẹp với 8 trụ cột nâng đỡ mái cổng và chia cổng thành lối đi chính ở giữa rộng và hai lối đi nhỏ hơn ở hai bên. Trên đầu mỗi cột đều trang trí Chim thần Keyno hai mặt luôn tươi cười đón khách. Hai bên cổng là hai bờ tường vừa thấp dần vửa mở rộng, trang trí bởi cặp rắn bảy đầu theo phong cách nghệ thuật Khmer truyền thống.
Chánh điện chùa Ông Mẹt quay mặt về hướng đông và được xây dựng trên nền tam cấp. Nền cấp một bằng đá xanh cao 1,35m được bao bọc bởi hàng rào sắt cao gần 2m và trên mỗi đầu cột rào đều có hình Bhrama bốn mặt. Ờ bốn góc nền cấp một là bốn ngôi tháp chứa tro cốt người đã khuất. Nền cấp hai bằng gạch đại cao 1,13m có tường bao bọc chung quanh nhưng được chừa những khoảng trống để lên xuống. Nền cấp ba là nền trên cùng của ngôi chánh điện xây bằng gạch đại cao 0,7m, dài hơn 20m và rộng gần 10m. Ngôi chánh điện gồm 32 trụ cột bằng gỗ quý, chia thành 4 hàng. Ở mỗi đầu cột và xiên ngang đều được chạm trỗ hoa văn sơn son thếp vàng. Mái ngói ngôi chánh điện được thiết kế thành mái đứng một cấp và mái nằm hai hoặc ba cấp. Giữa các cấp mái đều có khoảng cách để gió có thể lưu thông làm mát không khí bên trong. Đường gờ giữa các mái ngói được trang trí thành vây lưng rồng vắt đuôi lên cao, xà đầu xuống thấp, trong khi toàn bộ những viên ngói xếp nhau trên mái tạo hình vảy rồng. Nếu từ trên cao nhìn xuống, sẽ thấy mái ngôi chánh điện chùa Ông Mẹt như một đàn rồng từ trên trời nhìn xuống bốn hướng nhân gian. Hai đầu hồi trước và sau ngôi chánh điện là hai tấm gỗ quý được chạm khắc rất công phu với nhiều hình tượng thể hiện đời sống văn hóa tâm linh của người Khmer Nam bộ.
Trên bệ thờ bên trong ngôi chánh điện là cốt tượng Đức Phật Thích Ca uy nghi trên tòa sen cao 4,4m; dài 5m và rộng 4,3m. Đây là một trong những tượng Phật to nhất trong những ngôi chùa Khmer trên địa bàn tỉnh. Chung quanh tượng lớn này còn có nhiều tượng Phật nhỏ hơn bằng nhiều chất liệu như đá, xi măng, đồng, gỗ… với nhiều kích thước và tư thế khác nhau như Phật xuất gia, Phật khất thực, Phật thành đạo, Phật thuyết pháp…
Phía sau chánh điện là Thư viện với lối kiến trúc độc đáo nhà sàn gỗ truyền thống của đồng bào Khmer Nam bộ xưa. Toàn bộ 24 đầu cột, xiên tâm, xiên dọc… đều được chạm khắc công phu, sơn son thếp vàng. Thư viện có ba gian, giam giữa là nơi chứa sách, trong đó có nhiều thư tịch cổ; hai gian hai bên là nơi đọc sách, học tập của các vị sư sãi và bà con trong phum sóc.
Trong khuôn viên chùa Ông Mẹt còn có một số kiến trúc như tăng xá, Văn phòng Trị sự Phật giáo hệ phái Mahanikay, giảng đường, sala thờ Neakta, tháp tưởng niệm… Dù được xây dựng ở những giai đoạn khác nhau bằng những chất liệu khác nhau và được sử dụng vào những mục đích khác nhau nhưng những kiến trúc độc lập này tồn tại hài hòa trong một tổng thể kiến trúc chung đậm đà bản sắc văn hóa của đồng bào Khmer Nam bộ.
Về tên gọi theo Phạn ngữ chùa Bodhisàlaraja. Theo chiết tự Bodhi là Bụt hay Phật; Sàla là cây sala hay cây Long thọ – một loại cây thiêng của đồng bào Khmer; Raja là Vua. Từ đó, Bodhisàlaraja được hiểu là “Tượng Phật làm bằng thân gỗ quý nhất Long thọ”. Tên này của ngôi chùa gắn liền với truyền thuyết ngày xa xưa toàn bộ khu vực Phường 3, Phường 4 thành phố Trà Vinh bây giờ là vùng đất ẩm thấp, bưng trấp như cái ao lớn, trong khi khu vực Phường 1 và Phường 2 là con giồng đất cát khô ráo đã hình thành xóm làng, phum sóc. Con sông Long Bình ngày đó có dòng chảy ngoằn ngoèo vào đến sát chân con giồng. Vào một đêm, khi đang ngồi thiền, vị sư cả ngôi chùa gần đó thấy một vị thánh tăng đến mách bảo có tượng Phật nổi lên giữa ao lớn và muốn thỉnh tượng lên chỉ có cách duy nhất là dùng bảy sợi chỉ màu. Sáng hôm sau, sư cả đến bến nước thì quả nhiên thấy tượng Phật bằng gỗ Long thọ rất to lớn. Vị sư cùng bà con phum sóc tổ chức lễ cầu nguyện rồi dùng bảy sợi chỉ như lời thánh tăng chỉ bảo. Tuy nhiên, rời khỏi ao không bao xa, khi đến chân cội bồ đề bên bến nước thì bảy sợi chỉ đồng loạt đứt, tượng Phật dừng lại, không cách nào đưa đi tiếp. Biết là ý trời, vị sư cả quyết định xây dựng ngôi chùa nơi tượng Phật gỗ an vị và gọi tên là chùa Bodhisàlaraja. Tượng gỗ Long thọ đó, sau được bồi thêm một lớp xi măng, chính là tượng Phật to lớn được thờ trong ngôi chánh điện hiện nay.
Dưới cội bồ đề vốn là bến nước lớn mà mỗi ngày cư dân trên giồng cát xuống lấy nước của dòng sông Long Bình thuở ấy. Nơi đây cũng là bến ghe xuồng có thể tỏa đi khắp nơi trên địa bàn Trà Vinh, sang các tỉnh lân cận. Người Khmer gọi “Bến lớn” hay “Bến chính” là Kompong Thom. Ngôi chùa dựng lên bên Bến lớn là Wat Kompong Thom, sau gọi tắt thành Wat Kompong. Người Kinh, người Hoa trong vùng cũng gọi theo một cách sát nghĩa là “Chùa Bến”.
Tên Chùa Ông Mẹt có hai cách giải thích. Cách thứ nhất là vị sư cả trụ trì ngôi chùa này trong một thời gian dài có tên là Sư Meas nên bà con phum sóc quen gọi là Wat Lụckru Meas. Người Kinh, người Hoa cứ vậy gọi theo là Chùa Ông Mẹt. Cách thứ hai là cốt tượng Phật trong chùa quá lớn, khiến cho nhiều người Khmer nhìn thấy ngạc nhiên đến thảng thốt mà buột miệng: “Mèn đéc ơi!” (Trời đất ơi!). Từ đó biến âm dần thành Chùa Ông Mẹt.
Là nơi đặt Văn phòng Trị sự của Phật giáo Khmer hệ phái Mahanikay, chùa Ông Mẹt có nhiều đóng góp cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Khmer Nam bộ. Xuất phát từ chùa Ông Mẹt, phong trào đấu tranh đòi dạy và học chữ Phạn, chữ Khmer lan rộng khắp các nhà chùa, các phum sóc trong tỉnh, chống lại chính sách “ngu dân” của thực dân Pháp. Sau đó, không chỉ dạy và học chữ Khmer mà chữ quốc ngữ cũng được đưa vào giảng dạy, tạo điều kiện cho con em đồng bào dân tộc thuận lợi hơn trong việc học tập, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Cũng từ chùa Ông Mẹt, Phật giáo Nam tông Khmer ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong đời sống vật chất, tinh thần của bà con phum sóc. Ngôi chùa không chỉ là nơi thực hành các nghi lễ tôn giáo mà còn là trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng, tiếp thu các giá trị mới về khoa học kỹ thuật, văn hóa nghệ thuật, ứng dụng vào sản xuất và sinh hoạt làm cho đời sống vật chất, tinh thần của bà con ngày càng ổn định và nâng cao.
Chùa Ông Mẹt là nơi học tập, đào tạo nhiều thế hệ sư sãi cho các ngôi chùa Khmer Trà Vinh, trong đó có nhiều vị danh tăng đạo cao đức trọng có nhiều đóng góp cho đạo và đời như Sư cả Sơn Vọng – cố Phó Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam; Maha Sơn Thông – cố Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Đại lão hòa thượng Maha Thạch Sa rây – cố Phó Chủ tịch Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam…
Vừa học chữ, học kiến thức, các thế hệ sư sãi Khmer tại chùa Ông Mẹt còn được chú trọng nâng cao lòng yêu nước, ý chí căm thù kẻ xâm lược. Do đó, ngôi chùa này là nơi xuất phát phong trào đấu tranh chính trị của sư sãi, đồng bào Khmer trong tỉnh và là nơi che chở cho rất nhiều thanh niên các dân tộc trong tỉnh không phải đi lính cho địch trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ. Chính vì vậy, khi trận tiến công Xuân Mậu Thân đang diễn ra, kẻ thù cho máy bay ném bom gây hư hại nặng dù vị trí ngôi chùa cách dinh Tỉnh trưởng không quá 150 m.
Cùng với nhiều cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng khác, chùa Ông Mẹt đã góp phần hình thành diện mạo văn hóa tâm linh của cộng đồng các dân tộc Trà Vinh trong tiến trình lịch sử chung.
Chùa Âng, gọi theo ngôn ngữ Paly là Wat Angkor Raig Borei, tọa lạc tại Phường 8, thành phố Trà Vinh (nay là Phường Nguyệt Hóa, tỉnh Vĩnh Long), liên hoàn với danh thắng Ao Bà Om và Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh. Khuôn viên chùa rộng hơn 3,5 ha với nhiều chủng loài thực vật đặc hữu trên đất giồng cát như sao, dầu, tre, trúc… trong đó có hàng trăm gốc sao, dầu cổ thụ quanh năm che mát ngôi chùa cổ kính. Như bao ngôi chùa Khmer khác trên địa bàn Trà Vinh, chùa Âng là một quần thể các công trình kiến trúc bao gồm tăng xá, giảng đường dạy chữ Paly và chữ Khmer… bao quanh ngôi chánh điện uy nghi. Ngôi chùa quay mặt về hướng đông, thể hiện tư tưởng Phật giáo là Phật Thích ca ở tây phương nhìn về hướng đông để độ trì chúng sinh.
Từ cổng chính vào là một lối đi rộng giữa hai hàng sao cổ thụ thân to, cao vút vừa che mát không gian vừa tạo ra thế uy nghiêm cho ngôi chùa. Lối đi ngang qua hào nước rộng chừng 4m, dài hơn 400m, bao quanh ngôi chánh điện và các công trình kiến trúc khác, mà không ngôi chùa Khmer nào khác có được.
Theo truyền thuyết, chùa Âng được hình thành từ nhiều thế kỷ trước nhưng được xây dựng qui mô như hiện nay vào năm Thiệu Trị thứ 3, tức năm 1842 theo dương lịch. Từ đó đến nay, ngôi chùa được trùng tu, sửa chữa nhiều lần, trong đó xây dựng mới các công trình phụ như nhà tăng xá, trai đường… nhưng ngôi chánh điện cơ bản vẫn giữ được nguyên trạng như buổi đầu mới hình thành.
Trung tâm của ngôi chùa Khmer là ngôi chánh điện (Preah Vihea) thờ Phật, nơi hội tụ và phản ánh trình độ của các nghệ nhân đương thời về nghệ thuật kiến trúc, hội họa, điêu khắc…
Nền chánh điện chùa Âng rộng 24 x 36 m, cao 1,4 m được xây bằng đá xanh, mặt lót gạch tàu cổ và được bao bọc bởi một hàng rào cao 1,23 m, chừa hai cửa ra vào ở hai hướng đông và tây. Ngôi chánh điện có diện tích 12 x 24 m được xây dựng trên nền thứ hai, cao hơn nền thứ nhất là 0,6 m và được bao bọc bởi vòng rào thứ hai, cao 0,7 m. Ngôi chánh điện chùa Âng được xây dựng bằng khung gỗ, mái lợp ngói. Toàn bộ chánh điện được trụ đỡ bởi hệ thống 18 chiếc cột bằng gỗ quý, đường kính 0,6 m, cao 6 m. Bên ngoài hành lang phía trước là 6 cột, trong đó 4 cột giữa có đúc hình tiên nữ (Keyno) và hai cột hai bên đúc hình chim thần (Krud) để đỡ khung sườn mái. Bên trong chánh điện là một không gian rộng với 12 trụ cột được trang trí hình rồng, sơn son thếp vàng. Mái chánh điện chùa Âng được cấu tạo độc đáo, bao gồm ba cấp mái có màu sắc đẹp và hài hòa, trong đó hai mái trên cùng rất cao và dốc, tạo ra cảm giác linh thiêng mà người phật tử phải hết sức khiêm cung khi ngước nhìn. Hai đầu hồi được đóng kín bằng hai tấm gỗ hình tam giác chạm khắc rất công phu. Các diềm mái được trang trí hình rồng thân nằm xoãi dài, vảy rồng uốn cong ngược lên, tạo cảm giác mái ngói vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát.
Bốn bức tường chánh điện là những bức bích họa đặc sắc thể hiện tư tưởng Phật giáo, thông qua con đường tu hành của Phật Thích Ca. Trên trần là bốn bức bích họa hoành tráng thể hiện bốn giai đoạn trong cuộc đời Phật Thích Ca là Phật đản sanh, Phật xuất gia, Phật thành đạo và Phật nhập niết bàn.
Bệ thờ Phật trong chánh điện chùa Âng cũng được các nghệ nhân thời ấy tập trung công sức thể hiện. Toàn bộ bệ là là một tòa sen với nhiều cánh đặt sau một lớp võng bằng gỗ chạm khắc rất tinh xảo với nhiều hình hoa lá, muông thú được sơn son thếp vàng. Trên bệ, ngoài tượng chính cao 2,1 m còn có 55 tượng Phật lớn nhỏ khác nhau, bằng chất liệu xi măng và gỗ quý, đều được thếp vàng. Cũng như các ngôi chùa Nam tông Khmer khác, chánh điện chùa Âng chỉ thờ duy nhất Đức Phật Thích Ca ở tư thế ngồi thiền định.
Phía trước ngôi chánh điện là ngôi tháp chứa di cốt các vị sư cả trụ trì chùa qua các thời kỳ. Điều đặc biệt, đây là ngôi tháp năm ngọn duy nhất trong các ngôi chùa Khmer Trà Vinh. Tháp năm ngọn là sự ảnh hưởng tư tưởng Ấn Độ giáo về vũ trụ, thiên nhiên và con người.
Việc xây dựng ngôi chùa bề thế, uy nghi vào giữa thế kỷ XIX đã chứng tỏ rằng, khu vực trên con giồng cát phía tây nam phường Trà Vinh ngày nay, vào thời điểm ấy đã tồn tại những phum sóc Khmer có mật độ dân cư khá đông đúc, đời sống kinh tế tương đối sung túc và trình độ nghệ thuật kiến trúc, hội họa, điêu khắc… cao khiến các thế hệ cư dân hiện nay và du khách gần xa phải nghiêng mình thán phục.
Qua thời gian, một số cột gỗ và chi tiết bằng gỗ trong kiến trúc chánh điện chùa Âng đã bị hư hại. Do hạn chế về kinh phí và nhân lực, nhà chùa buộc phải tu sửa, dặm vá bằng xi măng và các chất liệu khác.
Trải qua gần hai thế kỷ vững vàng, uy nghi tồn tại trước tác động của thời tiết, mưa gió và thời gian, ngôi chánh điện chùa Âng là niềm tự hào của đồng bào Khmer nói riêng, của cộng đồng các dân tộc Trà Vinh nói chung bởi các giá trị độc đáo mang tính đỉnh cao về nghệ thuật kiến trúc, hội họa, điêu khắc đậm đà bản sắc văn hóa Khmer, có sự giao lưu nhất định với văn hóa Việt, Hoa, Ấn Độ, Thái Lan…
Với những giá trị vật chất, tinh thần lớn lao đó, Chùa Âng được Bộ Văn hóa Thông tin, nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia, loại hình kiến trúc nghệ thuật, vào năm 1994.
Ngày nay, chùa Âng là một trong những ngôi chùa Phật giáo Khmer tiêu biểu trên địa bàn tỉnh cũng là nơi diễn ra nhiều sinh hoạt văn hóa, lễ hội, trong đó có lễ hội Ok om bok – một di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, vào dịp Rằm tháng Mười âm lịch hàng năm. Di tích chùa Âng cùng với di tích lịch sử – văn hóa Ao Bà Om (loại hình danh thắng), Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer và Trung tâm Văn hóa – Thể thao tỉnh hình thành một khu sinh hoạt văn hóa và là điểm nhấn quan trọng trong chiến lược phát triển ngành kinh tế Du lịch.