Ngày 21/5/2000, cầu Mỹ Thuận – một địa danh quan trọng trong khu vực và là niềm mơ ước của người dân – đã trở thành hiện thực. Đây là chiếc cầu dây văng đầu tiên ở Việt Nam và là công trình của sự kết hợp giữa nét kiến trúc và kỹ thuật tiên tiến nhất...
Trên gò đất cao nhất thành phố, tại giao lộ 19/8 và đường Hoàng Thái Hiếu có một cây da cao lớn, cành lá sum suê, rợp mát. Quả thực, trong khung cảnh ồn ào, náo nhiệt của trung tâm thành phố Vĩnh Long vốn thiếu cây cao bóng cả, dư thừa khói bụi, ...
Chùa Bồ Đề tọa lạc tại ấp Mỹ Hưng, xã Mỹ Hoà, huyện Bình Minh, cách thành phố Vĩnh Long chừng 30 km về phía Tây, cách thành phố Cần Thơ 2 km về phía Đông Nam.Theo các bậc kỳ lão, chùa Bồ Đề xây dựng từ giữa thế kỷ XIX...
Khởi nguyên, chùa Phước Hậu chỉ là một chiếc am tranh. Thỉnh thoảng, có một vài thiền sư vãng du đến rồi đi. Mãi đến năm 1894, ông Hương cả làng Đông Hậu là Lê Văn Gồng vốn lòng mộ đạo, vận động thiện nam tín nữ trong làng xây dựng một ngôi chùa sườn gỗ,...
Di chỉ khảo cổ học Thành Mới trải rộng trên địa bàn ấp Ruột Ngựa, ấp Bình Phụng - xã Trung Hiệp và ấp Bình Thành - xã Trung Hiếu – huyện Vũng Liêm. Di chỉ Thành Mới đã được các nhà khảo cổ học người Pháp phát hiện từ đầu thế kỉ XX....
Nhà cổ Cầu Kè hay nhà Huỳnh Kỳ tọa lạc ở trung tâm thị trấn Cầu Kè, huyện Cầu Kè (nay là xã Cầu Kè, tỉnh Vĩnh Long), cách thành phố Trà Vinh (nay là phường Trà Vinh) khoảng 30km. Ngôi nhà được xây dựng vào năm 1924 theo bản thiết kế của các kiến trúc sư người Pháp....
Chùa Hạnh Phúc Tăng – tiếng Khmer là Sanghamangala – tọa lạc tại ấp Trung Trạch, xã Trung Thành, huyện Vũng Liêm. Theo các nhà sư và một số tín đồ cao niên kể lại thì chùa này có niên đại cao nhất so với các chùa Khmer khác trên địa phận hai tỉnh Vĩnh Long - Trà Vinh....
Chùa toạ lạc tại ấp Sóc Rừng, xã Loan Mỹ, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long, cách thành phố Vĩnh Long 42 km về phía Đông Nam. Đây là di tích kiến trúc nghệ thuật đặc trưng của người Khmer Nam Bộ. Chùa được Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long công nhận là Di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh vào ngày 23-11-2007, theo Quyết định số 2427/QĐ-UBND....
Chùa Long Khánh tọa lạc tại số 28 – đường 8/3 – khu vực 4 – khóm B – Phường 5 – thành phố Vĩnh Long. Chùa Long Khánh cách trung tâm thành phố Vĩnh Long 1.800 mét về phía Đông Nam.....
Bởi Nguyễn Nguyên | Tổng hợp tứ các nguồn
Ngày 21/5/2000, cầu Mỹ Thuận – một địa danh quan trọng trong khu vực và là niềm mơ ước của người dân – đã trở thành hiện thực. Đây là chiếc cầu dây văng đầu tiên ở Việt Nam và là công trình của sự kết hợp giữa nét kiến trúc và kỹ thuật tiên tiến nhất. Quan trọng hơn, cầu Mỹ Thuận là một sản phẩm của tình hữu nghị hợp tác giữa nhân dân và Chính phủ hai nước Việt Nam – Australia. Việc xây dựng thành công cầu Mỹ Thuận là một biểu tượng đầy ý nghĩa, là một bằng chứng của tình hữu nghị bền vững trong sự phát triển của đất nước trong thế kỷ XXI.
Ngắm cầu Mỹ Thuận vào ban đêm
Cầu Mỹ Thuận là một cây cầu bắc qua Tiền Giang ở đồng bằng sông Cửu Long, được chính thức khởi công ngày 6 tháng 7 năm 1997. Mỹ Thuận là tên của một ngôi làng nhỏ nằm bên tả ngạn sông Tiền, nhánh phía bắc của sông Cửu Long, thuộc tỉnh Tiền Giang (cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 200 km về hướng tây nam. Quốc lộ 1 vượt qua sông Tiền ở Mỹ Thuận vì nơi đây sông chỉ rộng có 800 m, hẹp nhất trong suốt chiều dài của nó trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Bắt đầu từ năm 1936, xe cộ và khách bộ hành phải dùng phà để qua hữu ngạn, thuộc tỉnh Vĩnh Long; và bến phà được gọi với cái tên quen thuộc là bắc Mỹ Thuận.
Cầu Mỹ Thuận chính thức khởi công ngày 6 tháng 7 năm 1997 ở một địa điểm cách bến bắc Mỹ Thuận khoảng 1 km về phía hạ lưu. Cầu thuộc loại cáp kéo có chiều dài khoảng 1.535 m và một tầm gió 37.5 m (khoảng cách từ mặt nước cao nhất đến sàn cầu). Vày chính của cầu sẽ dài 350 m, được neo vào hai trụ tháp bê tông cao khoảng 121 m bởi 128 dây cáp (Sàn cầu rộng khoảng 23 m, đủ cho 4 lằn xe (2 lằn xe cho mỗi chiều lưu thông) và 2 lề đường ở hai bên cho người đi bộ.
Cầu Mỹ Thuận
Cầu dẫn có chiều dài 442,6 mét, gồm 11 nhịp, mỗi nhịp dài 40 mét. Nhịp sát trụ neo dài 43,8 mét và nhịp sát mố cầu dài 38,8 mét.
Nền đường đắp có chiều cao tối đa là 6 mét, được xử lý đặc biệt bằng công nghệ chống thấm do nền đường yếu.
Bởi Nguyễn Nguyên | Sách Di tích lịch sử – văn hóa tỉnh Vĩnh Long
Trên gò đất cao nhất thành phố, tại giao lộ 19/8 và đường Hoàng Thái Hiếu có một cây da cao lớn, cành lá sum suê, rợp mát. Quả thực, trong khung cảnh ồn ào, náo nhiệt của trung tâm thành phố Vĩnh Long vốn thiếu cây cao bóng cả, dư thừa khói bụi, tiếng ồn thì sự hiện diện của cây da kia đã là điều thú vị. Đặc biệt hơn, người Vĩnh Long lâu nay luôn giữ gìn cây da bằng tình cảm trân trọng, thiêng liêng, vì đây chính là dấu vết duy nhất còn sót lại của thành Vĩnh Long xưa : cây da cửa Hữu.
Theo Đại Nam nhất thống chí và Gia Định thành thông chí, vào tháng hai năm Quý Dậu, đời Gia Long thứ 12 (1813), triều đình Huế lệnh cho quan Khâm mạng trấn thủ Lưu Phước Tường của Vĩnh Thanh trấn xây dựng thành. Thành xưa tọa lạc tại Phường 1, thành phố Vĩnh Long ngày nay. Thành đắp bằng đất, cửa chính hướng Đông Nam, lưng quay hướng Tây Bắc. Chu vi thành rộng 750 trượng (một trượng bằng 3 thước), cao một trượng, dày 2,5 trượng. Quanh thành có hào rộng, sông sâu. Phía tả là sông Long Hồ, phía hữu là rạch Ngư Câu (rạch Cái Cá), mặt sau có sông Cổ Chiên (một nhánh lớn của Sông Tiền), mặt trước có đường Cừ Sâu (nay là rạch Cầu Lầu). Thành có 5 cửa quay về 5 hướng Đông - Tây – Bắc – Đông Nam và Tây Nam. Cửa Tiền của thành ở hướng Đông, cửa Hậu hướng Tây, cửa Tả hướng Bắc, cửa Hữu hướng Tây Nam. Bên ngoài mỗi cửa thành đều có một đoạn thành cong, bao vòng cửa. Bốn góc thành tạo thành hình hoa mai. Trong thành có hai con đường dọc, 3 đường ngang, 3 công thự, kho lương, nhà thừa ty, trại lính và hành cung. Phía Đông thành có quan lộ chạy dọc sông Long Hồ, phía Tả là nhà Sứ quán, phía Hữu là chợ Vĩnh Thanh. Riêng góc Nam của thành, chỗ tiếp giáp đường cừ và sông Long Hồ, có xưởng Thủy sư (xưởng đóng tàu chiến). Thành tuy không rộng nhưng được xây dựng kiên cố, bố phòng chặt chẽ, thuận tiện đường tiến thủ. Nói về tầm quan yếu của thành, sách Gia Định thành thông chí nhận định : “ …Thật là yếu địa hình thắng vậy”.
Đời Minh Mạng thứ 13 (1832), sau đúng 100 năm thành lập Long Hồ dinh (1732), Vĩnh Thanh trấn đổi tên thành Vĩnh Long trấn (sau đổi tiếp thành Vĩnh Long tỉnh – một trong Nam Kỳ lục tỉnh). Do nhiều biến chuyển của lịch sử, địa phận Vĩnh Long về sau thu hẹp nhiều so với khi còn là thủ phủ miền Tây thời Ling Hồ dinh. Nhưng thành Vĩnh Long trong suốt quá trình tồn tại luôn là thành trì vững chắc, chi phối về quân sự – kinh tế – văn hóa cả khu vực miền Tây Nam Bộ rộng lớn của Tổ quốc.
Năm 1867, đánh chiếm Vĩnh Long xong, thực dân Pháp đập phá tất cả các công trình văn hóa, đồn lũy của nhà Nguyễn và san bằng thành Vĩnh Long.
Qua cơn tàn phá, rất may, trước cửa Hữu thành Vĩnh Long còn cây da sống sót. Nhân dân giữ gìn, bảo vệ cây da, gọi tên cây da cửa Hữu để lưu dấu và hoài niệm về thành Vĩnh Long xưa.
Vào thập niên 50, cây da mẹ – dấu vết duy nhất của thành Vĩnh Long xưa – bị lụi tàn. Từ thân cây mẹ mọc lên cây đa con vươn mình phát triển tươi tốt, tồn tại đến ngày nay.
Ngày 1/12/2000, UBND tỉnh ra quyết định công nhận Cây da cửa Hữu là di tích lịch sử – văn hóa cấp tỉnh.
Chùa Bồ Đề tọa lạc tại ấp Mỹ Hưng, xã Mỹ Hoà, huyện Bình Minh, cách thành phố Vĩnh Long chừng 30 km về phía Tây, cách thành phố Cần Thơ 2 km về phía Đông Nam.
Theo các bậc kỳ lão, chùa Bồ Đề xây dựng từ giữa thế kỷ XIX. Nơi đây là điểm tu hành của nhiều tín đồ sùng đạo, nhiều vị cao tăng đạo cao, đức trọng. Với thời gian tồn tại lâu dài cùng sự tàn phá của hai cuộc chiến tranh vừa qua, chùa Bồ Đề không còn nguyên vẹn với những đường nét cổ kính xưa kia, nhưng trong ký ức của bao người, nơi đây vẫn là điểm son tươi thắm của tình yêu quê hương đất nước, sự hài hợp tuyệt vời giữa đạo pháp và dân tộc, thể hiện xuyên suốt hai cuộc chiến tranh vệ quốc.
Ngay từ đầu thập niên 30, trong ấp Mỹ Hưng xuất hiện một người đàn ông lạ mặt phong cách lịch duyệt, nói năng mực thước, thường mặc áo dài xuyến, đầu đội khăn đóng. Ông lưu lại trong chùa Bồ Đề, hốt thuốc nam trị bệnh cứu dân lành. Người thầy thuốc nhanh chóng nổi tiếng với tài trị bệnh rất giỏi, lại thông thiên văn, địa lý. Mọi người bị lôi cuốn bởi tài hùng biện, kiến thức uyên bác của ông thầy thuốc. Thanh niên trai tráng thường xuyên tập hợp tại chùa để được nghe thầy Ba - bà con thân mật gọi ông thầy thuốc nam – nói chuyện. Những chuyện từ làm ăn, sinh sống, vui chơi giải trí hàng ngày đến những chuyện xa, chuyện gần đông - tây - kim cổ. Dần dần, nhiều thanh niên vốn mù chữ, thiếu thông tin đã hiểu biết ít nhiều về thế sự. Họ hiểu vì sao có kẻ giàu, người nghèo, có bất công xã hội… Tâm hồn thanh niên được người thầy khơi gợi tình yêu quê hương đất nước, gieo mầm tư tưởng tiến bộ.
Người thầy thuốc ở chùa Bồ Đề một năm. Ông ra đi một thời gian ngắn. Sau khi trở lại chùa, ông xuống tóc quy y và mang pháp danh Nhựt Quang.
Thầy Nhựt Quang giỏi giáo lý nhà Phật, thông thiên bác cổ nên bà con tín đồ xa gần hết sức trọng vọng. Nhiều người tự nguyện tìm đến xin học tập, kết thân với thầy. Trong số này có ông Bùi Văn Hoành, bà Bùi Thị Trường, bà Chiêm Thị Ngó (tức bà Phan Thị Đạm). Thầy say sưa nói về vai trò, vị trí của phụ nữ trong xã hội, phong trào đấu tranh của phụ nữ Việt Nam và phụ nữ thế giới, quyền sống của phụ nữ, sự bất bình đẳng xã hội mà phụ nữ đang gánh chịu nặng nề… Luồng tư tưởng mới truyền sang những thanh niên đang khao khát, hoài vọng về tiền đồ quốc gia, dân tộc. Thầy Nhựt Quang phổ biến cho thanh niên các loại sách báo tiến bộ đương thời như Phụ nữ Tân Văn, Một chữ trinh, Trai Nam Việt - gái Lạc Hồng… có tác dụng lớn trong việc trang bị kiến thức cho thanh niên.
Sự thật, thầy Nhựt Quang là nhà cách mạng Nguyễn Văn Nhẫn đang bí mật hoạt động, gầy dựng phong trào. Ông tìm về chùa Bồ Đề để tạo dựng cơ sở cách mạng, xây dựng tổ chức Đảng. Năm 1934, thầy Nhựt Quang vận động quần chúng xã Mỹ Hoà thành lập các hội Ái hữu, phổ biến các tài liệu cách mạng cho thanh niên tiến bộ. Năm 1936, Chi bộ đầu tiên của xã Mỹ Hoà được thành lập tại chùa Bồ Đề. Đây là kết quả qua dày công vận động, rèn luyện thử thách của nhà cách mạng tiền bối Nguyễn Văn Nhẫn.
Sau khi chính thức thành lập, Chi bộ Mỹ Hoà hoạt động tại xã nhà, đồng thời một bộ phận bí mật hoạt động ở thành phố Cần Thơ. Hai bộ phận thường xuyên hỗ trợ lẫn nhau. Chi bộ Đảng vận động nhân dân tham gia các đoàn thể, hội nhóm; phát động nhân dân yêu cầu nhà cầm quyền giảm sưu, giảm thuế. Năm 1936, đồng chí Đặng Công Lý tổ chức đưa đồng chí Bảy Cùi (tức Phan Văn Bảy (1910 - 1942) - nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Cần Thơ) sang Mỹ Hòa tổ chức nhiều đợt tuyên truyền cách mạng có đông đảo nhân dân tham dự. Chi bộ Đảng Mỹ Hòa thường tổ chức họp tại chùa Bồ Đề. Để che mắt địch, khi họp đều có bộ bài cào để giữa bàn, mỗi đảng viên bày trước mặt một ít tiền lẻ.
Năm 1939 - 1940, nhiều đảng viên chi bộ Mỹ Hòa bị lộ, bọn mật thám Pháp, tề ngụy theo dõi, bắt bớ. Các đồng chí Huỳnh Văn Chiêm, Lê Văn Vị, Từ Hiền Đại bị đày ra Côn Đảo; các đồng chí Nguyễn Văn Dân, Nguyễn Văn An, Nguyễn Văn Đông, Bùi Văn Bảy, Chiêm Thị Ngó bị giam ở Chí Hòa, Bà Rá. Sau đó, đồng chí Đông hy sinh ở Côn Đảo, đồng chí Lưu Nhân Sâm bị xử bắn ở Hóc Môn.
Cách mạng tháng Tám thành công, các đồng chí bị lưu đày trở về quê nhà hoạt động, tiếp tục lui tới chùa Bồ Đề hội họp. Khi Pháp quay lại Việt Nam, ủng hộ tuần lễ đồng - vàng của Chính phủ chùa Bồ Đề hiến đại hồng chung làm vũ khí đánh giặc.
Năm 1955 - 1956, Ngô Đình Diệm lập tỉnh Tam Cần, lấy thị trấn Trà Ôn làm tỉnh lỵ, lập ra huyện Bình Minh. Lúc ấy, tỉnh ủy Tam Cần chọn Mỹ Hòa, Đông Thành (Bình Minh), Ngãi Tứ, Song Phú (Tam Bình) làm khu căn cứ. Tỉnh ủy Tam Cần thường chọn chùa Bồ Đề làm điểm hội họp. Các đồng chí Nguyễn Thành Khẩn (Mười Thơ), Lê Thới Tợi, Chín Hà nhiều lần về chùa Bồ Đề nghỉ ngơi, hoạt động. Cơ sở cách mạng nhiệt thành. Đặc biệt, các ni sư giúp đỡ cách mạng tận tâm, tận lực.
Trong các năm 1957 - 1959, Liên Tỉnh ủy miền Tây từ căn cứ U Minh chuyển về đóng ven hai bờ sông Hậu, xã Mỹ Hòa trở thành xã căn cứ của Liên Tỉnh uỷ. Mỹ Hòa nhiều lần đón tiếp các đồng chí Phạm Thái Bường, Sáu Dân, Sáu Đàng, Mười Thơ về hội họp, chỉ đạo phong trào. Đồng chí Nguyễn Văn Hạnh (tức Tám Lương) – Trưởng Ban cơ yếu Khu Tây Nam Bộ kiêm nhiệm trạm đầu mối liên lạc của Văn phòng Liên Tỉnh ủy miền Tây – hoạt động ở Mỹ Hòa trong thời gian khá dài. Trong quá trình hoạt động, đồng chí liên hệ với ni cô Trần Thị Tám là trụ trì của chùa Bồ Đề. Ni cô Trần Thị Tám canh gác, bảo vệ các cuộc họp chu đáo, an toàn. Cho đến khi Tỉnh ủy Tam Cần giải tán, nơi đây không xảy ra sự việc đáng tiếc.
Sau Mậu Thân 1968, ông Võ Thành Bảy ở Cần Thơ về chùa Bồ Đề bàn bạc với các sư sãi, tín đồ đưa ông Chín Tòng, pháp danh Thích Trí Quảng về làm trụ trì chùa. Các ông bà như bác sĩ Thuấn, Võ Văn Bảy, Hai Trăm tổ chức rước ông Nguyễn Văn Tòng từ chùa Long Thới, Kế Sách, Cần Thơ về chùa Bồ Đề. Nhằm che mắt địch, Tôn giáo vận Cần Thơ tổ chức lễ rước tượng Phật long trọng. Từ thời điểm ấy, chùa Bồ Đề trở thành cơ quan của Tôn giáo vận thành phố Cần Thơ. Thầy Thích Trí Quảng xây bệ tượng bằng xi-măng, bên trong để bọng, làm hầm bí mật, phòng khi cấp thiết (hầm bí mật nay vẫn còn). Thầy Thích Trí Quảng hoạt động liên tục tại chùa, đến năm 1975 mới về lại thành phố Cần Thơ.
Chùa Bồ Đề được UBND tỉnh ra quyết định số 970/QĐ-UBT ngày 17/4/2003 công nhận là Di tích cấp tỉnh.
Khởi nguyên, chùa Phước Hậu chỉ là một chiếc am tranh. Thỉnh thoảng, có một vài thiền sư vãng du đến rồi đi. Mãi đến năm 1894, ông Hương cả làng Đông Hậu là Lê Văn Gồng vốn lòng mộ đạo, vận động thiện nam tín nữ trong làng xây dựng một ngôi chùa sườn gỗ, mái ngói âm dương, vách ván, nền gạch. Ngôi chùa này là một dạng chùa làng, nên được đặt tên là chùa Đông Hậu. Đến năm 1910, ông Hương cả Lê Văn Gồng mất, con gái ông là bà Lê Thị Huỳnh và Phật tử địa phương đã thỉnh Hoà thượng Hoằng Chỉnh ở chùa Thiên Ấn (Quảng Ngãi) vào trụ trì. Hoà thượng Hoằng Chỉnh đã đổi hiệu chùa Đông Hậu thành Phước Hậu cho thích hợp hơn. Hòa thượng Hoằng Chỉnh là một cao tăng nên hoằng dương một thời gian thì thiền môn vào quy củ, tăng ni tín đồ đến quy y thọ giới mỗi ngày một đông.
Năm 1939, Hoà thượng Hoằng Chỉnh viên tịch nên đến năm 1942, bổn đạo thỉnh Hòa thượng Khánh Anh từ chùa Long An (Đồng Đế – Trà Ôn) về trụ trì chùa Phước Hậu. Hòa thượng Khánh Anh quê tại Quảng Ngãi, vào Nam hành đạo từ mấy mươi năm trước. Ngài là một cao tăng có nhiều đệ tử tài đức.
Năm 1961, do thời gian, chùa Phước Hậu bị xuống cấp. Lúc bấy giờ, Hoà thượng Khánh Anh đang làm Thượng thủ Giáo hội Tăng già toàn quốc. Hoà thượng chuẩn bị trùng tu chùa Phước Hậu thì viên tịch.
Hòa thượng Thiện Hoa kế thế trụ trì chùa Phước Hậu và bắt đầu xây dựng lại ngôi chùa. Tuy danh nghĩa là trụ trì, nhưng Hoà thượng Thiện Hoa là Viện phó, rồi Viện trưởng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất nên phải giao chùa Phước Hậu cho Hòa thượng Thích Hoàn Phú xây dựng tháp Đa Bảo thờ xá lợi đức Phật Thích Ca và các vị tổ sư tiền bối hữu công. Ngoài ra, Thượng tọa Hoàn Phú còn xây dựng nhiều công trình xung quanh chùa Phước Hậu.
Chùa Phước Hậu thuộc xã Ngãi Tứ, huyện Tam Bình
Chùa Phước Hậu hiện nay gồm nhiều công trình : chính điện, trung điện, hậu tổ, tàng kinh các, hệ thống bảo tháp… Trừ chính điện là công trình xây năm 1962, bằng vật liệu hiện đại như bê-tông, xi-măng, gạch ngói, gỗ… theo mô hình kiến trúc kết hợp Đông phương và Tây phương. Còn các công trình khác là các bộ phận của ngôi chùa cũ, có từ năm 1894, tất nhiên có sửa chữa bồi bổ.
Chính điện chùa Phước Hậu hình chữ “sơn”, nhìn xuống dòng sông Ba Sác (một nhánh của sông Hậu). Mặt tiền chùa xây theo kiểu cổ lầu, giữa trang trí mô hình ngôi tháp bảy tầng cao chót vót. Nội điện rộng rãi trang trí đơn giản, nền lót gạch bông, lại có nhiều cửa ra vào nên trông trống trải. Bàn thờ giữa trang trí tượng đức Phật Thích Ca dạng đang tọa thiền dưới gốc bồ đề. Tầng dưới là tượng Thái tử Tất Đạt Đa sơ sinh và bộ tượng Tây Phương Tam Thánh : Di Đà, Quan Âm và Thế Chí. Ưu thế của mô hình này là cùng lúc có thể chứa hàng trăm người hành lễ, hai bên tả hữu ban có hai bàn thờ, đa số là tượng của chùa Đông Hậu cũ còn để lại như tượng Tiêu Diện Đại Sĩ, Hộ pháp Di Đà, Địa Tạng, Chuẩn Đề và “Thập lục La Hán”, bằng gỗ hoặc bằng gốm Cây Mai (Chợ Lớn).
Chùa Phước Hậu được xây dựng theo mô hình hiện đại, nhưng lại là ngôi chùa có rất nhiều câu đối. Nội dung các câu đối này đều ca tụng đức Phật và các vị Bồ Tát, ca tụng địa phương theo quan niệm “địa linh nhân kiệt”, ca tụng đức độ của các vị tổ sư tiền bối hoặc lòng hảo tâm chùa các tín đồ mộ đạo.
Một câu đối ca tụng lòng từ bi của đức Phật Di Đà như sau :
“Như thị ngã văn, cảm ứng tùy tâm, thành tắc hữuNhĩ thời Phật thuyết, viên thông nhập đạo diệu ư vô”.(Ta từng nghe rằng, cảm ứng tùy tâm, thành ắt cóBấy giờ Phật thuyết, viên thông nhập đạo, diệu mà không).
Một câu đối ý nghĩa thâm trầm :Phật cảnh u huyền, như vân quảI sơn đầu, hành đáo sơn đầu, vân cánh viênThiền cơ hạo đảng, tự nguyệt phù thủy diện, bác khai thủy diện, nguyệt hoàn thâm.(Cảnh vật u huyền, như đám mây treo đỉnh núi nhưng người leo đến đỉnh núi thì mây lại xaMái thiền rộng lớn, giống bóng trăng trên mặt nước, nhưng khi khuấy động mặt nước thì trăng càng sâu).
Một câu đối mang nội dung tiến bộ :Phước địa kiến pháp trường, đảo đảo thần quyền trừ ủy mịHậu cơ huy Phật nhật, thủ tiêu ma chương diệt tà mê.(Phước địa dựng pháp trường, đảo đảo thần quyền trừ ủy mịHậu cơ soi Phật nhật, thủ tiêu ma chương diệt tà mê).
Phước Hậu cổ tự là tổ đình Phật giáo dòng Lâm Tế (Chúc Thánh). Dòng Phật giáo này từ Hội An vào Quảng Ngãi rồi vào Trà Ôn. So với các thiền phái khác thì thiền phái Lâm Tế chi nhánh Chúc Thánh đến Vĩnh Long khá muộn, nhưng dòng thiền này đào tạo rất nhiều tăng ni tài đức trong giai đoạn chấn hưng và giai đoạn thống nhất Phật giáo. Riêng trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc, chùa Phước Hậu là nơi nuôi chứa cán bộ cách mạng ngay trong lúc khó khăn nguy hiểm nhất. Nhiều tu sĩ tu học ở chùa, đã tuân lời dạy dỗ của các vị Hòa thượng nghe theo lời kêu gọi của Tổ quốc, đã “cởi áo cà sa, khoác áo chiến bào” và có vị hy sinh trên chiến trường, đến ngày hòa bình không trở về ngôi chùa cũ.
Chùa Phước Hậu, ở ấp Đông Hậu, xã Ngãi Tứ, huyện Tam Bình (ngang thị trấn Trà Ôn ngày nay) đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích lịch sử cách mạng ngày 25 tháng 01 năm 1994 (Quyết Định số 152 QĐ ngày 25/1/1994).
Di chỉ khảo cổ học Thành Mới trải rộng trên địa bàn ấp Ruột Ngựa, ấp Bình Phụng - xã Trung Hiệp và ấp Bình Thành - xã Trung Hiếu – huyện Vũng Liêm. Di chỉ Thành Mới đã được các nhà khảo cổ học người Pháp phát hiện từ đầu thế kỉ XX. Năm 1944, ông Louis Malleret - nhà khảo cổ người Pháp nổi tiếng - đã đến nghiên cứu Thành Mới và mang về Sài Gòn nhiều hiện vật quí, trong đó có pho tượng Phật và tượng Visnu bằng đá.
Trải qua khoảng thời gian dài, công tác nghiên cứu khoa học gián đoạn, di chỉ Thành Mới bị đào bới, xáo trộn nghiêm trọng. Đến thập niên 90 của thế kỷ XX, các nhà khoa học trong và ngoài nước dành nhiều quan tâm đến Thành Mới.
Trong hai năm 1998 - 1999, Viện Khảo cổ học Việt Nam phối hợp với Bảo tàng Vĩnh Long tiến hành khai quật di chỉ Thành Mới. Qua hai đợt khai quật, các nhà khoa học đã làm xuất lộ từ lòng đất hàng ngàn di vật quí bằng các chất liệu : gạch, gốm, đá, gỗ, kim loại… Qua giám định bằng phương pháp phóng xạ C14, các hiện vật Thành Mới có niên đại từ thế kỷ I đến thế kỷ thứ VI sau Công nguyên. Đặc biệt, đây là lần đầu tiên, nhà khảo cổ phát hiện một di chỉ còn nguyên vẹn các tầng văn hóa tại di chỉ cư trú kênh Ruột Ngựa.
Các nhà khảo cổ học nhận định rằng : Từ di tích Thành Mới có thể mở ra hướng đi mới cho việc nghiên cứu văn hóa Óc Eo Đồng bằng sông Cửu Long.
Bởi travinh.gov.com
Nhà cổ Cầu Kè hay nhà Huỳnh Kỳ tọa lạc ở trung tâm thị trấn Cầu Kè, huyện Cầu Kè (nay là xã Cầu Kè, tỉnh Vĩnh Long), cách thành phố Trà Vinh (nay là phường Trà Vinh) khoảng 30km. Ngôi nhà được xây dựng vào năm 1924 theo bản thiết kế của các kiến trúc sư người Pháp. Cũng như nhiều ngôi nhà dân dụng khác, nhà cổ Cầu Kè gồm ngôi nhà chính và một số công trình khác như: rào cổng, nhà sau, nhà kho... Ngôi nhà chính có hình chữ nhật theo hướng Bắc Nam, chiều dài 20m, chiều rộng 18m, bó vỉa nền bằng đá xanh ken nhau dạng nền "kim quy". Nền nhà lót gạch bông với nhiều loại hoa văn khác nhau, mái nhà lợp ngói vẩy cá.
Đây là ngôi nhà có đường nét cổ kính, vật liệu, phong cách trang trí tiêu biểu cho kiến trúc Pháp đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, phần lớn tiện nghi trong nhà cũng như cách bố trí và đề tài một số tranh vẽ thì mang phong cách Á Đông – thuần Việt. Ngôi nhà còn là một công trình đặc sắc về điêu khắc, hội họa. Các tượng, phù điêu trên mái, trên các đầu cột, vòm cửa, các bức họa trên vách, trên trần; cách sử dụng gạch men với nhiều loại hoa văn để trang trí phần sảnh, vách ngoài và sàn nhà đã tạo cho công trình nét độc đáo riêng.
Nhà cổ Cầu Kè là một minh chứng cho lịch sử phát triển kiến trúc Việt Nam, là thời kỳ chuyển tiếp giữa kiến trúc truyền thống sang kiến trúc hiện đại và được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật.
Chùa Hạnh Phúc Tăng – tiếng Khmer là Sanghamangala – tọa lạc tại ấp Trung Trạch, xã Trung Thành, huyện Vũng Liêm. Theo các nhà sư và một số tín đồ cao niên kể lại thì chùa này có niên đại cao nhất so với các chùa Khmer khác trên địa phận hai tỉnh Vĩnh Long - Trà Vinh. Ngôi chùa đầu tiên dựng bằng cây lá đơn sơ vào thế kỷ XIII. Sau nhiều lần trùng tu, ngôi chùa xây năm 1971. Lần trùng tu gần nhất vào năm 1999.
Như những ngôi chùa Khmer Nam bộ, chùa Hạnh Phúc Tăng có khuôn viên rộng 3 ha, quanh chùa bao phủ nhiều cây cao, bóng cả, tạo nên khung cảnh thâm nghiêm trầm mặc.
Ngôi chánh điện nền xây cao, lát gạch, tường bê-tông kiên cố. Riêng phần mái ngói lợp thành ba cấp và cấp trên cùng tạo ra độ dốc 45 độ. Hai đầu hồi là hai hình tam giác. Trên mỗi đầu cột đều có hình nữ thần (Kayno) làm gờ đỡ mái chạm khắc khá tỉ mỉ. Phía trước gian chánh điện là một hệ thống gồm nhiều ngọn tháp đựng linh cốt của các vị sư sãi nhiều đời và tro của tín đồ quanh vùng. Riêng ở khuôn viên chùa có các sima xây trên sân gạch, giống như các am nhỏ. Sima là nơi chôn các “hòn đá kiết giới” thiết lập ranh giới của sự tu hành.
Ở gian chánh điện bày trí các tượng Phật: tượng Phật lúc còn là Thái tử Tất Đạt Đa, tượng Phật đi khất thực, tượng Phật thiền định, tượng Phật nhập Niết bàn. Hai bên bệ thờ còn có tượng chằn reahu đắp nổi.
Phía sau chánh điện là sala, xây theo kiểu nhà ngang, tường gạch mái ngói. Gian giữa sala có bàn thờ Phật quay về hướng Đông. Đây là nơi các sư sãi, Phật tử hội họp, tiếp khách và là nơi tiến hành lễ dâng cơm.
Chùa Hạnh Phúc Tăng nằm trên quốc lộ 53 nối liền hai tỉnh Vĩnh Long - Trà Vinh nên được nhiều người biết đến và thuận tiện cho khách tham quan. Ngôi chùa không rộng lắm, kiến trúc tương đối mới nhưng rất cổ xưa nếu xét về phương diện lịch sử – văn hóa.
Chùa toạ lạc tại ấp Sóc Rừng, xã Loan Mỹ, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long, cách thành phố Vĩnh Long 42 km về phía Đông Nam. Đây là di tích kiến trúc nghệ thuật đặc trưng của người Khmer Nam Bộ. Chùa được Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long công nhận là Di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh vào ngày 23-11-2007, theo Quyết định số 2427/QĐ-UBND.
Chùa được xây dựng cách đây 200 năm với vật liệu tre lá đơn sơn, trong một khu rừng hoang vu, đầm lầy có nhiếu sen mọc. Sau đó chùa bị hoả hoạn. Năm 1884, dân làng góp tiền dựng lại ngôi chùa bằng gỗ. Chùa mang lối kiến trúc nghệ thuật Khmer, các mái làm theo lối so le, ở giữa ba mái xuôi một mái ngang là hình tháp cao 2 m, chóp tháp 5 tầng, xung quanh tượng nữ hần Kayno đỡ tháp. Chùa có nhiều đầu thần xà hình rẻ quạt che đức Phật ngồi thiền. Gian chính điện có hai tầng, tầng trệt thờ tượng Phật Thích Ca. Chùa có 11 tượng Thích Ca lớn nhỏ ở các tư thế thiền định khác nhau và ba tượng Phật cứu độ chúng sinh. Tất cả các tượng cột ngoài đều tạc tượng chim thần Mahaknốt và tượng thần cánh dơi. Chùa là địa điểm tổ chức các lễ hội truyền thống hàng năm của đồng bào Khmer nơi đây.
Chùa Long Khánh tọa lạc tại số 28 – đường 8/3 – khu vực 4 – khóm B – Phường 5 – thành phố Vĩnh Long. Chùa Long Khánh cách trung tâm thành phố Vĩnh Long 1.800 mét về phía Đông Nam.
Chùa Long Khánh được tạo lập từ giữa thế kỷ thứ XIX. Lúc đầu, chùa được cất đơn sơ tre lá. Đến đầu tháng 12 năm 1912, bà Nguyễn Thị Mai – một tín đồ sùng đạo trong làng Long Thanh (tổng Bình Thiềng – Đệ nhất Quận – tỉnh Vĩnh Long) - tự nguyện hiến 5 ha đất để trùng tu ngôi chùa và là nguồn hoa lợi sinh sống cho các vị tu sĩ.
Vào năm 1943, Hoà thượng Thích Pháp Vân – tên thật là Dương Bá Thạnh – sinh năm 1904, quê xã Hậu Lộc, huyện Tam Bình đến chùa Long Khánh làm trụ trì. Ngay thời gian đầu về chùa, thầy Thích Pháp Vân đã nuôi chứa cán bộ cách mạng và tham gia các hoạt động cách mạng: in truyền đơn, biểu ngữ, vận động nhân dân hưởng ứng hiến nhiều tiền bạc ủng hộ cho kháng chiến chống Pháp. Thầy cho xây một vách đôi tại gian hậu Tổ, làm hầm bí mật nuôi chứa cán bộ.
Chùa Long Khánh ở Phường 5 – thành phố Vĩnh Long
Đến năm 1954, đất nước chuyển sang giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, chùa Long Khánh vẫn tiếp tục là cơ sở an toàn của cách mạng.
Năm 1967, do nhu cầu bám trụ trong lòng địch, nhiều cán bộ lãnh đạo của thành phố Vĩnh Long thường xuyên về chùa Long Khánh. Hoà thượng Pháp Vân cùng một số cán bộ đào hầm bí mật tại gian chánh điện. Thời điểm này, chùa Long Khánh là đầu mối liên lạc của nhiều nơi như Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam khu 8, Trí vận và binh vận khu 8, Tôn giáo vận thành ủy Mỹ Tho… Những năm 70, chùa Long Khánh vẫn tiếp tục là nơi nuôi chứa cán bộ, thầy Thích Pháp Vân vẫn quyên góp vật chất để tiếp tế cho bộ đội tới ngày thống nhất đất nước 30/04/1975.
Hơn 30 năm trụ trì chùa Long Khánh, Hoà thượng Thích Pháp Vân đã tạo ra cho cách mạng một cơ sở đáng tin cậy, an toàn, góp phần thực hiện mong ước hòa bình, độc lập của cả dân tộc. Điều đáng nói hơn hết là hoạt động của chùa xuyên suốt từ năm 1943 đến năm 1975 mà không hề bị lộ.
Năm 1979, Hoà thượng Thích Pháp Vân viên tịch, chùa Long Khánh không ai trụ trì. Sau đó, ni sư Thích Nữ Trí Tiên về trụ trì chùa Long Khánh cho tới nay.
Nhìn tổng thể, chùa là một quần thể kiến trúc khá rộng với nhiều tòa nhà nối nhau, bao gồm: chánh điện, thiên tĩnh, phòng khách, phòng thuốc nam, nhà ăn, nhà trù (nhà bếp) và hậu Tổ.
Ngày 17/03/1999 Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã tặng Hoà thượng Thích Pháp Vân Huy chương kháng chiến hạng Nhất vì đã có thành tích trong cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc và Huân chương kháng chiến hạng Nhì vì đã có công lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Chùa Long Khánh được UBND tỉnh Vĩnh Long ra quyết định số 970/QĐ ngày 17 tháng 04 năm 2003 công nhận Di tích lịch sử cách mạng.